
Bí tích Thánh Thể: Suối nguồn hiệp thông

CÂU CHUYỆN SUY TƯ
Bí tích Thánh Thể: Suối nguồn hiệp thông
Hiệp thông loan báo tin mừng
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật OP.
WHĐ (25.09.2023) – Mối hiệp thông Giáo hội trong đó, nhờ đức tin và Phép rửa, mỗi người được đính ghép vào, là một mối hiệp thông phát nguyên từ và quy tâm về với Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, Phép rửa là hành động hội nhập vào trong một Thân Thể được Chúa Phục Sinh xây dựng và làm cho sinh động nhờ Thánh Thể, đến độ Thân Thể ấy có thể thực sự được gọi là Thân Mình của Đức Kitô. Bí tích Thánh Thể sở dĩ là nguồn mạch và là sức mạnh sáng tạo làm phát sinh nên mối hiệp thông giữa các phần tử của Giáo hội, là vì chính bí tích này kết hợp từng người trong họ lại với Đức Kitô: “Thông phần thực sự vào Thân Mình của Chúa Kitô qua việc bẻ bánh Thánh Thể, chúng ta được nâng lên đến mức hiệp thông với Người và với nhau. “Vì chỉ có một tấm bánh, nên tuy nhiều, hết thảy chúng ta cũng chỉ là một thân thể; bởi lẽ tất cả chúng ta đều chia phần cùng một tấm bánh duy nhất ấy” (1Cr 10, 17)[1].
Công đồng Vaticanô II khẳng định, Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô giáo, và qua bí tích này, con người “dâng lên Thiên Chúa Tế vật thần linh và hiến dâng chính mình cùng với Tế vật ấy”[2]. Công đồng cũng nhìn nhận Bí tích Thánh Thể là tâm điểm của các bí tích khác: “Những bí tích khác, cũng như mọi thừa tác vụ trong Hội thánh, và các hoạt động tông đồ, đều gắn liền với Bí tích Thánh Thể và quy hướng về Bí tích này”, bởi lẽ “phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội thánh, đó là chính Đức Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta”[3].
Bí tích Thánh Thể cũng được gọi là Bí tích của sự hiệp thông Giáo hội. Thật vậy, trong Thánh Thể, người lãnh nhận không chỉ được hiệp thông theo chiều dọc (với Chúa Kitô, và qua Người bước vào hiệp thông sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi), mà còn là chiều ngang (hiệp thông với tha nhân); không chỉ hiệp thông với quá khứ mà còn là tương lai; không chỉ hiệp thông với Hội thánh khải hoàn mà còn với Hội thánh thanh luyện nữa. Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông sự sống thần linh của Thiên Chúa. “Vì vậy Thánh Thể xuất hiện như là đỉnh cao của tất cả các bí tích vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha bằng cách đồng hóa với Người Con yêu dấu duy nhất của Người nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần”[4]. Đồng thời, Thánh Thể cũng đưa chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa với tha nhân, với cộng đoàn Hội thánh: “trong Đức Kitô và nhờ hoạt động của Thánh Thần liên kết chúng ta với Chúa Cha và với nhau.”
Xuất phát từ hai mối bận tâm, Tông thư Desiderio Desideravi và Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam về chủ đề mục vụ năm 2023 là Củng cố sự hiệp thông, bài viết này xin được trình bày vài ý tưởng căn bản về chủ đề hiệp thông và mối tương quan giữa Thánh Thể và Hiệp Thông.
Đức thánh cha Phanxicô tỏ bày khao khát của ngài trong Tông thư Desiderio Desideravi: “để tất cả mọi người có thể ngồi ăn bữa tiệc hy tế của Chiên Con và được sống nhờ Người” (số 5). Ngay từ khởi đầu của sứ vụ, Đức Giêsu vẫn khao khát và mời gọi con người bước vào sự hiệp thông với Người. “Khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta, đã và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được thoả mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc, và quốc gia (Kh 5, 9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho tới khi Người trở lại” (số 4). Do đó, Đức Thánh Cha muốn mời gọi toàn thể cộng đồng dân Chúa hãy tái khám phá ý nghĩa, giá trị, và vẻ đẹp của Phụng vụ thánh để bảo toàn và gia tăng sự hiệp thông trong Giáo hội và kín múc sự sống sung mãn, tràn đầy nơi mầu nhiệm Vượt Qua.
Hoà trong nhịp đập của Giáo hội hoàn vũ, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã đề ra chương trình mục vụ cụ thể cho ba năm liên tiếp như một sự khai triển và đào sâu tinh thần hiệp hành trong đời sống Giáo hội địa phương[5]. Hiệp thông, tham gia, và sứ vụ là ba chiều kích của Giáo hội hiệp hành sẽ được cụ thể hóa qua chương trình suy tư, học hỏi, và hoạt động mục vụ, “để cùng sống đức tin và xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô”.
Năm 2023: Củng cố sự hiệp thông;
Năm 2024: Thúc đẩy sự tham gia đời sống Giáo hội;
Năm 2025: Cùng nhau loan báo Tin Mừng.
Với chủ đề “Củng cố sự hiệp thông” của năm 2023, Hội đồng Giám mục đã đề ra những hướng dẫn mục vụ sinh động với bốn khía cạnh trong đời sống: Hiệp thông nơi bàn tiệc Lời Chúa, hiệp thông nơi bàn tiệc Thánh Thể, hiệp thông trong lối sống bác ái Kitô giáo, và hiệp thông trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại. Hai gợi ý đầu tiên hướng về đời sống thiêng liêng và được trình bày cụ thể như sau:
Với những định hướng trên, bài viết này sẽ trình bày sơ lược lịch sử ý niệm ẩn chứa nơi cụm từ hiệp thông: khi nói tới hiệp thông, chúng ta muốn nhắm tới điều gì. Thánh Thể đưa con người vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, “thần hóa con người” tới mức con người trở thành Chúa. Đây là chủ đề thứ hai, và chủ đề thứ ba là sự hiệp thông với tha nhân, chiều kích hàng ngang, là sự hiệp thông Thánh Thể mở ra trước mỗi cá nhân. Trong chiều kích này, chúng ta đặc biệt tìm hiểu ý nghĩa của thánh lễ theo phương pháp thần học - mục vụ mà Liên Hội đồng Giám mục Á Châu gợi ra. Thánh lễ là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Dân Người qua đó Thiên Chúa mời gọi con người sống trong sự hiệp thông sâu xa với Người, để rồi được Người chữa lành, bồi bổ và gia tăng sức sống. Sự sống được toả lan khi con người sống mối hiệp thông này vì đồng thời họ cũng được hiệp thông với tha nhân.
I. Ý NGHĨA HẠN TỪ “HIỆP THÔNG”
Được hiểu như là mầu nhiệm của mối liên kết một cách cá nhân giữa mỗi người với Thiên Chúa Ba Ngôi, và với những người khác, khái niệm hiệp thông “nằm ngay ở điểm chính yếu của sự việc Giáo hội tự nhận thức về mình”: mối liên kết ấy khởi đầu với lòng tin, và hướng tới tình trạng viên mãn cánh chung nơi Giáo hội trên trời, nhưng đồng thời, đó cũng là một thực tại đang hiện diện manh nha nơi Giáo hội tại thế. (Thư gửi các Giám mục, 3).
Khái niệm hiệp thông (tiếng Latinh: communio, Hy Lạp: Koinonia) là một khái niệm có từ rất lâu đời trong Giáo hội, ngay từ những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, trong Thánh Kinh. Khái niệm này được Công đồng Vaticanô II sử dụng một cách sinh động và đa dạng để nói về chiều kích cốt lõi cũng như đào sâu những chiều kích khác nhau trong mầu nhiệm Giáo hội. Để có thể nắm bắt những tầng lớp ý nghĩa sinh động của cụm từ này, người ta phải luôn tìm hiểu nó trong bối cảnh giáo huấn Thánh Kinh và truyền thống giáo phụ[6]. Mỗi góc nhìn khác nhau sẽ giúp ta hiểu những chiều kích đa dạng khác nhau ẩn chứa trong khái niệm này. Đức Thánh Cha Phaolô VI dùng từ hiệp thông để chỉ hai cách tham tham dự vào sự sống Thiên Chúa: “Giáo hội có nghĩa là hiệp thông các Thánh. Và hiệp thông các Thánh biểu thị hai cách tham dự vào sự sống: tháp nhập các Kitô hữu vào đời sống của Đức Kitô, và lưu chuyển cùng một đức ái trong toàn thể cộng đồng tín hữu thuộc thế giới này cũng như thế giới bên kia. Hiệp nhất với Đức Kitô và trong Đức Kitô; và hiệp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo hội””[7]. Đức Gioan Phaolô II lại muốn làm nổi bật chiều kích Lời Chúa và Bí tích: “Tựcăn bản, đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa, qua trung gian Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Con người đạt được sự hiệp thông này nhờ Lời Chúa và các bí tích. Bí tích Thánh Tẩy là cửa ngõ và là nền tảng của sự hiệp thông trong Giáo hội. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và là cao điểm của toàn bộ đời sống Kitô giáo (xc. GH 11). Sự hiệp thông với Thánh Thể Đức Kitô vừa biểu thị vừa làm phát sinh - nói khác đi là xây dựng - sự hiệp thông sâu xa của tất cả mọi tín hữu trong Thân Thể Đức Kitô là Giáohội (xc. 1Cr 19,16)”[8]. Tuy được diễn tả qua nhiều chiều kích khác nhau, sự hiệp thông cũng chỉ quy hướng về ý niệm Dân Thiên Chúa và Thân Thể Đức Kitô, qua đó Giáo hội là Bí tích và là sự hiệp thông[9].
1. Sự phát triển khái niệm hiệp thông
Để có thể nắm bắt khái quát về những tầng lớp ý nghĩa của từ hiệp thông, sự truy tầm lịch sử của khái niệm này là cần thiết. Chúng ta sẽ cùng lược qua những ý nghĩa của khái niệm này trong Thánh Kinh, truyền thống thần học, Công đồng Vaticanô II, và những suy tư sau Công đồng[10].
1.1. Trong Thánh Kinh
Trong tiếng Hipri của Cựu ước, tương đương với koinonia là haburah dùng để gọi cộng đoàn các tín hữu theo hàng ngang, nhưng không áp dụng để nói đến tương quan của con người với Thiên Chúa, bởi vì con người chỉ là tôi tớ của Người, hoàn toàn suy phục Người. Điều mới mẻ của Tân ước là dám sử dụng cho mối tương quan với Thiên Chúa, bởi vì con người được chia sẻ bản tính của Thiên Chúa (theias koinonoi physeos: 2 Pr 1,4).
Trong Tân ước, danh từ này xuất hiện 19 lần với ý nghĩa thay đổi tùy theo bối cảnh khác nhau. Dựa trên sự phân tích của Heinrich Seeseman[11], cha Jérôme Hamer O.P. cho thấy danh từ này bao hàm ba ý tưởng: (1) Sự đóng góp, góp phần (Mittelsamkeit: contributing), trong bối cảnh của cuộc lạc quyên, chẳng hạn 2Cr 9,13; Rm 15,26; (2) sự tham gia, thông phần vào, chia sẻ (anteilhaben: participating), chẳng hạn 1Cr 10,16; Pl 3,10; (3) cộng đoàn (Gemeinschaft: community), một nhóm người cùng ý hợp tâm đồng với nhau, giả thiết sự liên đới và chia sẻ: Gl 2, 9-10; Cv 2, 41-42; 1Ga 1,3.6-7.
Nhìn dưới khía cạnh đối tượng tham gia, chúng ta nhận thấy ba điểm quy chiếu: về Đức Kitô, về Thánh Linh, về Hội thánh. Quy chiếu về Đức Kitô: hiệp thông với Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi trở thành anh em là Con của một Cha (1Cr 1,9); hiệp thông với Mình và Máu của Người (1Cr 10,16); hiệp thông vào những đau khổ của Người (Pl 3, 10), vv. Quy chiếu về Thánh Linh: được hiệp thông trong Thánh Linh, chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa (2Pr 1,4), cộng tác vào cuộc loan báo Tin mừng (Pl 1,5). Thánh Linh là chủ động của sự thông hiệp (2Cr 13, 13; Pl 2,1). Nên lưu ý là thánh Phaolô không nói đến hiệp thông với Thánh Linh (như khi nói về Chúa Kitô); ngược lại Thánh Linh là chủ động của hiệp thông; hiệp thông là một ân huệ do Thánh Linh ban. Quy chiếu về Hội thánh: hiệp thông với Hội thánh; cộng đoàn các tín hữu chia sẻ các của cải tinh thần và vật chất (Cv 2, 42-45; 4, 32-37), tham gia các hoạt động liên đới của cộng đồng (2Cr 8,4), công tác của vị tông đồ ở các cộng đoàn khác (2Cr 8,23), v.v...
1.2. Trong truyền thống thần học
Trong truyền thống Kitô giáo, communio được dùng trong nhiều bối cảnh khác nhau.
1/ Communio Trinitatis
Tư tưởng này muốn nói lên sự khác biệt và hợp nhất nơi Tam vị: Tam vị nhất thể. Cha không phải là Con, Con không phải là Thánh Linh, Thánh Linh không phải là Cha; nhưng không phải là ba mà chỉ là một Thiên Chúa. Hơn thế nữa, thần học còn tạo ra thuật ngữ tiếng Hy-lạp Perichoresis để diễn tả sự “thấm nhập” lẫn nhau, chứ không chỉ “hướng về nhau” (tương quan, relatio) mà thôi, và được dịch sang tiếng Latinh là circuminsessio (hay circumincessio). Tam Vị không chỉ là nguồn gốc mà còn là mẫu mực và cứu cánh của Giáo hội. Tất cả mọi hoạt động của Giáo hội đều nhắm đến lý tưởng và thánh Gioan đã vạch ra ở đầu bức thư thứ nhất trong 1Ga 1, 1- 4. Thoạt tiên xem ra bản văn này chỉ nói đến Chúa Cha và Đức Giêsu. Tuy nhiên, dựa theo 2Cr 13,13, ta có thể nói rằng Thánh Linh chính là sự hiệp thông giữa Cha và Con. Cũng có tác giả lưu ý rằng niềm vui là biểu tượng của Thánh Linh.
2/ Communio eucharistica
Sự hiệp thông Bí tích Thánh Thể. Ý tưởng này dựa trên đoạn văn 1Cr 10,16, và nêu bật sự kết hiệp với Chúa Giêsu. Trong ngôn ngữ bình dân, người ta thường hiểu communio (hoặc sacra communio) theo nghĩa này: rước Mình Thánh Chúa, hiệp lễ.
3/ Communio sanctorum
Sự hiệp thông giữa các thánh. Cụm từ này đã xuất hiện trong Tín biểu các thánh tông đồ (thế kỷ IV), và có thể hiểu theo hai nghĩa: sự hiệp thông “trong những sự thánh” (bí tích), hay là “giữa các thánh”. Nên biết là vào lúc đầu, các “thánh” được hiểu về tất cả những người đã lãnh bí tích Thánh tẩy, như chúng ta đọc thấy trong các thư thánh Phaolô. Đến khi có phong trào trở lại đạo cách ồ ạt, thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng của giai đoạn dự tòng, các “thánh” được dành cho các phúc nhân trên trời. Từ đó dịch sang tiếng Việt là “các thánh thông công”. Sách GLCG đã duy trì cả hai nghĩa đó (946-961; xem thêm 1026-1027; 1029; 1474-1477).
4/ Communio ecclesialis
Thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau trải qua dòng thời gian. Nghĩa đơn giản hơn cả là sự hợp nhất trong nội bộ Giáo hội, dựa trên tư tưởng của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô 4,3 (“Một thân thể, một Thần khí, một niềm hy vọng... một Chúa, một niềm tin, một phép rửa… một Thiên Chúa, Cha của mọi người”). Thứ đến, nó cũng được hiểu về sự hợp nhất giữa các các Giáo hội, communio ecclesiarum. Sự hiệp thông này được diễn tả qua nhiều hình thức: Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các Giáo hội địa phương gặp gỡ nhau tại các Công đồng, công nghị; thông tri cho nhau việc đắc cử Giám mục (littera communionis); trao đổi cho nhau bánh hiệp thông. Đó là hình ảnh của một “Ecclesia communio”. Sang thiên niên kỷ thứ hai, từ khi xảy ra sự cắt đứt hiệp thông giữa Rôma và Constantinopolis (năm 1054), hình ảnh được thay thế bằng “Ecclesia universalis”: Giáo hội duy nhất dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng. Các Giám mục được bổ nhiệm “nhờ ơn Tòa Thánh”. Sự cắt đứt “giao hảo với Tòa Thánh” dẫn tới sự ly giáo.
1.3. Công đồng Vaticanô II
Thượng hội đồng Giám mục, khóa ngoại thường năm 1985 nhằm kỷ niệm 20 năm bế mạc Công đồng Vaticanô II, đã tuyên bố rằng “khái niệm communio là đặc trưng của Giáo hội học Công đồng”.
Từ sau Công đồng Trentô, Giáo hội thường được nhìn dưới khía cạnh hữu hình và định chế phẩm trật. Cuộc canh tân Giáo hội học trong thế kỷ XX tìm cách nêu bật khía cạnh siêu nhiên và vô hình của Giáo hội, khởi đi từ khái niệm “Thân thể mầu nhiệm Đức Kitô”, được đánh dấu bởi thông điệp Mystici corporis của Đức giáo hoàng Piô XII (1943). Một khái niệm khá phổ thông vào những năm trước Công đồng là “bí tích”. Hiến chế Lumen Gentium du nhập thêm hai khái niệm quan trọng là “Mầu nhiệm” và “Dân Thiên Chúa” được đặt làm tựa đề cho hai chương đầu. Trong các văn kiện Công đồng, thuật ngữ “communio” xuất hiện 112 lần (khá nhiều, nếu so với 4 lần trong các văn kiện của Công đồng Vaticanô I), nhưng dùng theo nhiều nghĩa khác nhau.
1/ Trước tiên, communio là sự kết hợp nội tâm, vô hình, bí tích và siêu nhiên liên kết tất cả các Kitô hữu với Đức Kitô và với nhau trong Người. Nói chung toàn thể nhân loại được mời gọi đến communio với Thiên Chúa (GS 19). Nói chính xác hơn, nhân loại được mời gọi hiệp thông với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Linh (UR 7.15). Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta đến hiệp thông với Đức Kitô và với nhau (LG 7). Đây là sự hiệp thông giữa những kẻ có đức tin (UR 2), hoặc cộng đoàn huynh đệ mới (GS 32) mà nguồn mạch và trung tâm là Đức Kitô (UR 20). Được thiết lập như là sự hiệp thông của sức sống, tình yêu và chân lý (LG 9), cộng đoàn này có Thánh Linh làm nguyên ủy hợp nhất (UR 2). Sự hiệp thông nội tại, siêu nhiên được biểu lộ ra bên ngoài, do đó trở thành cộng đoàn đức tin, hy vọng và yêu mến (AG 19). Hiến chế Lumen Gentium khẳng định rằng trong Giáo hội có một sự hiệp thông sâu xa giữa tất cả mọi người đã được rửa tội: tất cả đều có chung một Đức Chúa và một Thánh Linh, họp thành một thân thể duy nhất; tất cả chia sẻ cùng một đức tin và cùng một phép rửa, cùng một ân huệ và ơn gọi, và cùng trách nhiệm và công tác (LG 32). Sự hiệp thông này không chỉ giới hạn vào những người trên trần thế mà còn mở rộng đến những người đã đi vào vinh quang thiên quốc (LG 50). Vì thế communio có một ngoại biên rất rộng, mở rộng đến biên cương trên trời dưới đất, thời gian và không gian vô tận của Giáo hội.
2/ Communio cũng được dùng để ám chỉ những mối tương quan giữa các nhóm ở trong Dân Thiên Chúa. Các tu sĩ được liên kết với nhau bằng sự hiệp thông huynh đệ (LG 43). Có sự hiệp thông giữa các Giáo hội Đông phương công giáo với nhau (OE 2) và giữa họ với Đức Giáo hoàng (OE 24). Công đồng lấy lại khái niệm thời các giáo phụ, áp dụng communio cho mối tương quan giữa các Giáo hội địa phương với nhau (AG 19) cũng như với Giáo hội phổ quát (AG 38).
3/ Công đồng còn sử dụng thuật ngữ communio hierarchica (cách riêng ở chương 3 của LG) để diễn tả cơ cấu của Dân Thiên Chúa. Giáo hội được tổ chức thành cơ cấu phẩm trật. Sự hiệp thông phẩm trật được áp dụng cho mối dây liên kết giữa tập đoàn Giám mục với vị nguyên thủ (LG 21). Sự hiệp thông phẩm trật cũng được áp dụng cho mối tương quan giữa các linh mục giáo phận với Giám mục (PO 7).
4/ Công đồng còn áp dụng từ communio trong lãnh vực đại kết để nói về những cấp độ liên kết khác biệt: “trọn vẹn hoặc chưa trọn vẹn”. Các Kitô hữu ngoài công giáo được gọi là những “anh em chưa được hiệp thông trọn vẹn” (GS 92). Thuật ngữ communio non plena chứa đựng một yếu tố tích cực: có một sự hiệp thông về cầu nguyện và ân huệ thiêng liêng (LG 15) giữa các Giáo hội, và tất cả được Thánh Linh kết hợp với nhau cách nào đó. Tuy nhiên, Công đồng nhìn nhận rằng communio này còn bất toàn, và làm ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn, biểu hiện qua việc cùng chia sẻ việc cử hành Thánh thể (UR3).
1.4. Sau Công đồng Vaticanô II
Như đã nói trên đây, sau Công đồng Vaticanô II, các sách thần học thường nêu bật khái niệm “Dân Thiên Chúa” như là tư tưởng đặc trưng của Công đồng, và đã được Hiến chế Lumen Gentium dành chương Hai để khai triển. Sự chuyển hướng sang khái niệm communio được thúc đẩy do nhiều lý do, trong đó ta không thể bỏ qua một lý do nhân bản và một lý do thần học. Lý do nhân bản là con người thời đại cảm thấy cần gắn kết với nhau, để không bị rơi vào tình trạng cô độc do chủ nghĩa cá nhân đề xướng. Lý do thần học là ý thức về sự tham gia vào đời sống Giáo hội được gợi lên từ hình ảnh Dân Thiên Chúa. Ý tưởng hiệp thông nói lên sự tôn trọng nguyên tắc hợp nhất đồng thời với nguyên tắc đa dạng trong đời sống Giáo hội. Một lý do nữa được gợi lên do những cuộc đối thoại đại kết: vào thời các giáo phụ, communio được dùng để nói đến tương quan giữa các Giáo hội địa phương với nhau.
Những dấu mốc của sự chuyển hướng này có thể tóm lại như sau:
1/ Thượng hội đồng Giám mục khóa 1985 đã cô đọng bản chất Giáo hội vào ba khái niệm “mầu nhiệm - hiệp thông - sứ vụ”. Riêng đối với khái niệm hiệp thông, văn kiện kết thúc khóa họp đã nhấn mạnh đến ba điểm:
Sự hiệp thông được dựa trên các bí tích và bản tính là thiêng liêng. Vì thế “Giáo hội học hiệp thông” không thể nào thu gọn vào những chuyện tổ chức hoặc thực thi quyền bính.
Giáo hội duy nhất và phổ quát hiện hiện trong tất cả các Giáo hội địa phương. Cần phải nhìn nhận sự duy nhất và đa dạng trong Giáo hội.
Sự tham gia và đồng trách nhiệm cần được diễn ra ở mọi cấp độ và trong các mối tương quan hỗ tương giữa các Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân. Sự hiệp thông là một sự cam kết của tất cả mọi tín hữu (chứ không phải chỉ vài người dấn thân, hoặc có ơn gọi) đối với Chúa Kitô. Điều này làm thay đổi bộ mặt của Giáo hội: từ một xã hội được cấu trúc dựa trên quyền bính do chức thánh (hàng Giám mục) sang một cộng đồng các tín hữu có ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc xây dựng Giáo hội.
2/ Hạn từ communio xuất hiện 100 lần trong Tông huấn Christifideles Laici (1988) bàn về người tín hữu giáo dân, nêu bật tương quan giữa các hàng ngũ trong Giáo hội. Điều này mang theo hai thách đố (số 18-20): Cần phải hiểu sự thông hiệp như một thực tại vừa thiêng liêng vừa hữu hình. Sự thông hiệp trong Giáo hội cũng cần được hiểu với tính cách hữu cơ (organica) theo nghĩa sự đa dạng và bổ túc giữa các ơn gọi. Trong Giáo hội có nhiều ơn gọi: chính trong sự bổ túc ơn gọi mà người giáo dân nhận ra sứ mạng của mình trong toàn thân thể.
Văn kiện cũng muốn liên kết giữa “hiệp thông và sứ vụ”. Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, là nguồn mạch của sự hiệp thông với Thiên Chúa và giữa loài người, đồng thời cũng là nguồn mạch của việc loan báo Tin mừng, nghĩa là công bố vương quốc Thiên Chúa giữa loài người. Hiệp thông và sứ vụ ảnh hưởng lẫn nhau: sự hiệp thông là dấu chỉ hữu hiệu cho việc truyền giáo (xc. Ga 17,21), và làm cho Giáo hội biểu lộ như là bí tích của sự hợp nhất.
3/ Khái niệm communio dần dần đã trở thành quen thuộc trong văn chương thần học, nhưng cũng không thiếu những giải thích lệch lạc. Vì thế ngày 28-5-1992, Bộ Giáo lý Đức tin đã gửi cho các Giám mục một bức thư để giải thích “Vài khía cạnh của Giáo hội hiểu như là communio” (Communionis notio), nhắc lại vài điểm quan trọng:
Khái niệm hiệp thông bao gồm khía cạnh hữu hình và vô hình: không thể nào tách biệt hai khía cạnh ấy. Mặt khác, Giáo hội được thiết lập như bí tích cứu độ, vì thế không thể nào khép kín trong mình, nhưng cần phải mở ra chiều kích đại kết và truyền giáo ngõ hầu quảng bá mầu nhiệm hiệp thông.
Khái niệm hiệp thông bao hàm sự hợp nhất trong đa dạng. Giáo hội là cộng đoàn huynh đệ mà cũng là cơ cấu phẩm trật. Giáo hội phổ quát vừa bao hàm sự thống nhất chặt chẽ vừa bảo vệ sự đa dạng dưới nhiều phương diện: tác vụ, các hình thức sinh sống và hoạt động tông đồ.
4/ Cũng vào năm 1992, Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo được ban hành, đúc kết những giáo huấn của Giáo hội về sự hiệp thông, cách riêng khi giải thích đặc điểm của Giáo hội là “duy nhất” (số 813-822) và khi nói đến các hàng ngũ khác nhau trong Giáo hội: giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ (số 871-873).
5/ Năm 1996, Tông huấn Vita consecrata được ban hành, trong đó từ hiệp thông xuất hiện 95 lần. Tông huấn nói đến nhiều cấp độ hiệp thông khác nhau: hiệp thông huynh đệ (trong cộng đoàn), hiệp thông giữa các tu sĩ và Giám mục, hiệp thông giữa các hội dòng, hiệp thông với các giáo dân. Đặc biệt là tông huấn nói đến “linh đạo hiệp thông” (số 46). Chủ đề này được Đức Gioan Phaolô II khai triển nhiều hơn trong tông thư Novo millennio ineunte (6-1-2001) từ số 42-46. Ý tưởng được tóm lại ở số 43 như sau:
Biến Giáo hội thành nhà và trường hiệp thông: đó là thách đố lớn giáp mặt chúng ta trong ngàn năm đang bắt đầu, nếu chúng ta muốn trung thành với chương trình của Chúa và đáp ứng những ước mơ sâu xa nhất của thế giới.
Tâm trí chúng ta hướng ngay tới việc phải làm, nhưng đó không phải là động lực đúng phải theo. Trước khi vạch ra những chương trình thực hành, chúng ta cần cổ võ một linh đạo hiệp thông, làm cho linh đạo đó thành nguyên lý hướng đạo giáo dục bất cứ nơi nào huấn luyện các cá nhân và người Kitô hữu, bất cứ nơi nào đào tạo những kẻ phục vụ bàn thờ, những người tận hiến và những lao công mục vụ, bất cứ nơi nào xây dựng các gia đình và các cộng đồng.
Một linh đạo hiệp thông dạy cho biết trước tiên sự chiêm ngắm trong lòng về mầu nhiệm Ba Ngôi ở trong chúng ta, và chúng ta cũng phải có khả năng thấy ánh sáng của Người sáng chói trên gương mặt của anh chị em xung quanh chúng ta. Một linh đạo hiệp thông cũng có nghĩa là một khả năng suy nghĩ đến anh chị em chúng ta trong đức tin, trong phạm vi hiệp nhất sâu xa của Thân thể Mầu nhiệm, và do đó như “những người là thành phần của tôi”. Điều này cho chúng ta khả năng chia sẻ những niềm vui và những đau khổ của họ, cảm giác những ước muốn của họ và chú tâm đến những nhu cầu của họ, hiến cho họ tình bạn sâu sắc và chân chính. Một linh đạo hiệp thông cũng bao gồm khả năng thấy điều tích cực nơi kẻ khác, đón nhận điều đó và khen ngợi điều đó như là một hồng ân Thiên Chúa ban: không những như là một hồng ân cho người anh người chị đã trực tiếp lãnh, mà còn như là “một hồng ân cho tôi”. Sau cùng, một linh đạo hiệp thông có nghĩa là biết cách “nhường chỗ” cho các anh chị em chúng ta, bằng cách “mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6,2) và chống lại những cám dỗ ích kỷ thường hay bao vây chúng ta và khơi dậy sự ganh đua, sự ham danh vọng, sự ngờ vực và ghen tương.
Chúng ta không nên có những ảo tưởng: nếu chúng ta không theo con đường thiêng liêng này, những cơ cấu bên ngoài để hiệp thông sẽ sinh rất ít kết quả. Chúng sẽ biến thành những cỗ máy không hồn,“những mặt nạ” hiệp thông hơn là những quyết định, nhưng điều đó không phải là chúng ít có ý nghĩa và kém thích hợp. Khoa thần học và linh đạo hiệp thông khuyến khích một sự đối thoại đầy hiệu quả giữa các Chủ Chăn và các tín hữu: một mặt liên kết họ ưu tiên trong tất cả những gì thiết yếu, và mặt khác đưa họ tới sự đồng thuận có cân nhắc trong các vấn đề mở rộng cho bàn cãi.
Muốn đạt mục đích này, chúng ta cần làm như của riêng mình sự khôn ngoan mục vụ ngày trước, sự khôn ngoan đó khuyên các vị mục tử lắng nghe rộng rãi hơn toàn Dân Chúa, mà không thiệt hại gì đến uy quyền của mình. Thật ý nghĩa lời thánh Bênêđictô nhắn nhủ Viện phụ của một đan viện, ngài mời ông ấy hỏi ý kiến ngay cả những thành phần trẻ nhất trong cộng đoàn: “Nhờ Chúa soi sáng, thường một người trẻ hơn lại biết điều hay nhất”. Và thánh Paulinus thúc giục: “Chúng ta hãy nghe điều giáo dân nói, bởi vì trong mỗi một người đó, Thần Khí Chúa thổi hơi”.
Khi sự khôn ngoan lề luật, bằng cách cung cấp những quy tắc chính xác cho việc tham dự, làm chứng cho cấu trúc phẩm trật của Giáo hội và đẩy xa mọi chước cám dỗ dẫn tới những chuyên quyền hay những thỉnh nguyện bất công, thì linh đạo hiệp thông, nhờ thúc giục một sự tín cẩn và cởi mở hoàn toàn phù hợp với phẩm giá và trọng trách của mỗi thành phần Dân Chúa, làm cho thực tại cơ chế có một linh hồn.
Tóm kết: Trong lịch sử thần học, khái niệm communio mang tính loại suy, và được gắn với nhiều thực thể khác nhau, như chúng ta đã thấy:
Communio trinitaria: Tam Vị là nguồn mạch, khuôn mẫu và mục tiêu của sự hiệp thông trong Giáo hội. Ý tưởng này gắn kết “hiệp thông với “mầu nhiệm”: mầu nhiệm hiệp thông.
Communio eucharistica: Trong bí tích Thánh Thể, người tín hữu hiệp thông với Đức Kitô và với Thân thể của Người. Tư tưởng nêu bật chiều kích huyền nhiệm cũng như bí tích của sự hiệp thông.
Communio sanctorum: sự hiệp thông giữa các thánh nêu bật chiều kích cánh chung của Giáo hội.
Communio fidelium: sự hiệp thông giữa các tín hữu với nhau do sự hiệp thông vào những kho tàng thiêng liêng của Giáo hội (Lời Chúa, bí tích).
Communio ecclesiarum: sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương với Giáo hội phổ quát.
Communio hierarchica: ý tưởng bình đẳng giữa các phần tử cần được kết hợp với ý tưởng cơ cấu phẩm trật của Giáo hội.
2. Những yếu tố tạo nên sự hiệp thông Giáo hội[12]
2.1. Lời Chúa
Tông huấn Verbum Domini (số 7) lưu ý chúng ta rằng “Lời Chúa” là một thuật ngữ loại suy. Ngay chính văn kiện cũng là một thí dụ rõ ràng về việc sử dụng thuật ngữ Lời Chúa một cách loại suy, bởi vì chúng ta có thể tìm thấy 8 ý nghĩa khác nhau: (1) Lời Chúa hiểu là Ngôi Hai trong Thiên Chúa Tam Vị. Đây là ý nghĩa tiên khởi và chính yếu, nguyên ủy của các ý nghĩa khác (analogatum princeps). (2) Nhân tính được kết hợp với Ngôi Lời. (3) Thiên Chúa thông đạt mình cho một người nào đó. (4) Thiên Chúa mặc khải trong Cựu ước. (5) Trong Tân ước, thuật ngữ này được sử dụng để ám chỉ lời giảng của các thánh Tông đồ (xc. Verbum Domini 4.7). (6) Kinh thánh cũng được gọi là Lời Chúa. (7) Truyền thống của Hội thánh cũng có thể được gọi là Lời Chúa (xc. Dei Verbum 10).
Việc tạo dựng, cuốn sách thiên nhiên (Liber Naturae) cũng có thể được gọi là lời của Chúa, bởi vì Ngôi Lời tự phát biểu ở trong đó.
Ý tưởng căn bản của Lời Chúa là chính Đức Kitô. Lời Chúa “triệu tập” Giáo hội. Giáo hội được thành hình bởi những người chấp nhận Lời Chúa và tuyên xưng đức tin.
2.2. Các Bí tích
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã mở đầu đoạn nói về các bí tích với những khái niệm “Các bí tích của Đức Kitô” (số 1114-1116) và “Các bí tích của Hội thánh” (số 1117-1121). Thuật ngữ này được giải thích như sau (số 1118):
Các bí tích là “của Hội thánh” theo hai nghĩa: chúng là “do Hội thánh” và “cho Hội thánh”. Các bí tích là “do Hội thánh” bởi vì Hội thánh là bí tích của hành động của Đức Kitô Đấng đang hoạt động trong Hội thánh nhờ sứ vụ của Chúa Thánh Thần. Và các bí tích là “cho Hội thánh”, “nhờ chúng mà Hội thánh được xây dựng” bởi vì chúng biểu lộ và truyền thông cho con người, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của sự hiệp thông của Thiên Chúa-Tình Yêu, Đấng là Một Chúa Ba Ngôi.
Hiến chế Lumen Gentium số 11 đã mô tả những cách thức khác nhau mà mỗi Bí tích góp phần vào việc xây dựng Hội thánh. Hơn nữa, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo còn vạch ra mối liên hệ của vài bí tích đối với sự hiệp thông:
a) Bí tích Rửa tội tháp nhập vào Hội thánh là Thân thể Đức Kitô (số 1267-1270). Bí tích Rửa tội đặt nền tảng cho sự hiệp thông giữa tất cả các Kitô hữu (số 1271, quy chiếu về sắc lệnhUnitatisredintegratio 3).
b) Bí tích Thánh thể làm nên Hội thánh (số 1396). Một ngạn ngữ từ thời Trung cổ viết rằng: “Thánh Thể làm nên Hội thánh - Hội thánh làm nên Thánh Thể:“Ecclesiam aedificavit Eucharistia et Ecclesia Eucharistiam efficit ”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành một thông điệp -Ecclesia de Eucharistia (ngày 17-4-2003), để trình bày mối tương quan giữa Thánh Thể và Hội thánh, đặc biệt ở chương Hai (“Thánh Thể xây dựng Hội thánh”: số 21-25 ) và chương Bốn (“Thánh Thể và sự hiệp thông Hội thánh”: số 34-46). Như sẽ thấy sau, không những Bí tích Thánh thể hợp nhất các tín hữu nên một Thân Thể, mà chính buổi cử hành Thánh lễ còn biểu lộ bản tính của Giáo hội.
c) Mặc dù cả hai bí tích Truyền chức thánh và Hôn phối đều được xếp chung vào các “bí tích phục vụ sự hiệp thông” (số 1534), nhưng danh xưng này được áp dụng cách riêng cho bí tích Truyền chức, bởi vì những người lãnh nhận được “thiết định nhân danh Đức Kitô để nên mục tử chăn dắt Giáo hội bằng lời và ân sủng của Thiên Chúa” (số 1535).
3. Các chiều kích của hiệp thông
3.1. Hiệp thông theo chiều đứng thẳng và chiều ngang
Như đã trình bày, khái niệm hiệp thông không phải là một khái niệm đơn nghĩa, và cần được suy tư trên nền tảng giáo huấn Kinh thánh và truyền thống giáo phụ. Cụm từ hiệp thông phải luôn bao hàm hai chiều kích: Chiều đứng thẳng (hiệp thông với Thiên Chúa) và chiều ngang (hiệp thông với tha nhân). Theo chiều thẳng đứng, hiệp thông trước tiên như là ân lộc của Thiên Chúa, như là hoa trái của sáng kiến thần linh được thực hiện nơi mầu nhiệm Vượt qua. Con người bước vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, một tương quan được thiết lập trong Đức Kitô và được thông ban qua các bí tích; theo chiều ngang, hiệp thông là mối liên hệ mới giữa con người với Thiên Chúa được nối dài thêm bằng một mối liên hệ mới giữa con người với con người. “Bởi thế, khái niệm hiệp thông phải có khả năng để diễn đạt, một mặt là bản chất bí tích của Giáo hội trong khi “chúng ta còn sống lưu đày xa Chúa”, và mặt khác là mối hiệp nhất đặc thù có sức làm cho các tín hữu trở thành những chi thể của cùng một Thân Thể: tức là của Nhiệm Thể Đức Kitô, trở thành cộng đoàn có cơ cấu tổ chức, cũng như trở thành “một dân tộc được quy tụ lại trong sự hiệp nhất giữa Cha, Con và Thánh Thần”, và ngoài ra, còn được trao ban những phương thế phù hợp cho sự hiệp nhất cả về phương diện hữu hình và xã hội nữa”[13].
3.2. Hiệp thông hữu hình và vô hình
Hiệp thông trong Giáo hội phải được hiểu đồng thời dưới hai khía cạnh hữu hình và vô hình. Xét dưới khía cạnh hữu hình, đó là sự hiệp thông trong giáo huấn của các tông đồ, trong các Bí tích, và trong phẩm trật Giáo hội. Giáo luật trình bày rất rõ những khía cạnh này tại điều 205: “Những người đã được rửa tội, liên kết với Đức Kitô trong cơ cấu hữu hình của Giáo hội Công giáo bằng những dây liên kết của việc tuyên xưng đức tin, của các bí tích và của việc lãnh đạo của Giáo hội, thì được hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo trên địa cầu này.” Xét dưới khía cạnh vô hình, sự hiệp thông trong Giáo hội chính là sự hiệp thông của mỗi người với Chúa Cha, qua Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và với những người khác, là những người cùng được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô, trong cùng một đức tin, cùng một tinh thần. “Qua những ân lộc thần linh mang hình thái của những thực tại hữu hình như thế, Đức Kitô thi hành chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả của Người ngay giữa lòng lịch sử và bằng nhiều cách thức khác nhau để cứu độ loài người. Chính mối liên hệ giữa những yếu tố vô hình và hữu hình của niềm hiệp thông trong Giáo hội đã làm cho Giáo hội trở nên Bí tích Cứu độ”[14].
Dưới khía cạnh hữu hình và vô hình này, còn phải kể đến sự hiệp thông các thánh, vốn là một lối diễn tả bắt nguồn từ trong Truyền thống các Tông đồ từ thế kỷ thứ tư. “Việc thông phần chung và hữu hình vào các ân lộc cứu độ (các sự thánh), và đặc biệt vào Bí tích Thánh Thể, là nguồn cội phát sinh mối hiệp thông vô hình giữa những người tham dự (các thánh). Mối hiệp thông ấy bao hàm một giây liên đới thiêng liêng giữa các phần tử của Giáo hội, trong tư cách là chi thể của cùng một Thân Thể, và hướng tới việc làm cho họ kết hợp thực sự trong đức ái qua việc kiến tạo “mối đồng tâm nhất trí chung”. Mối hiệp thông cũng hướng tới việc kết hiệp trong cầu nguyện, do cùng một Thần Khí gợi hứng lên nơi mọi người, đó chính là Thánh Thần “làm cho toàn thể Giáo hội được sung mãn và hiệp nhất”[15] Như thế, sự hiệp thông các thánh không chỉ là sự hiệp thông giữa các thành viên của Hội thánh Lữ hành, mà còn là sự hiệp thông với tất cả các thành viên của Hội thánh Khải hoàn cũng như Thanh luyện.
4. Thiên Chúa Ba Ngôi: Kiểu mẫu, nguồn mạch, và cùng đích của sự hiệp thông Giáo hội
Như đã trình bày, hiệp thông không phải là sáng kiến, cũng không phải là ý muốn của con người. Hiệp thông có khởi nguồn và khuôn mẫu từ chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Thiên Chúa là Hiệp thông giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa dựng nên con người và cho con người được tham dự vào sự hiệp thông của Thiên Chúa. Khi con người phạm tội, đánh mất sự hiệp thông này thì Con Thiên Chúa, qua mầu nhiệp nhập thể cứu độ, đã giao hoà con người với Thiên Chúa và liên kết con người với nhau trong cùng một Thánh Thần.
“Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu trọn hảo giữa Cha, Con và Thánh Thần. Ngay trong công trình tạo dựng, con người đã được gọi chia sẻ một phần nào đó vào hơi thở sự sống của Thiên Chúa (xc. St 2,7). Nhưng chính trong Chúa Kitô, chết và sống lại và lúc tuôn đổ Thần Khí, được ban cách vô ngần vô hạn (xc. Ga 3,34) mà chúng ta được trở nên những người tham dự vào sự sống sâu thẳm của Thiên Chúa. (16) Chúa Giêsu Kitô, Đấng “nhờ Thánh Thần hằng hữu đã tựhiến như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa” (Hr 9,14), chuyển thông cho chúng ta trong hồng ân Thánh Thể chính sự sống thần linh”[16].
II. NƠI THÁNH THỂ: CON NGƯỜI ĐƯỢC THÔNG HIỆP SỰ SỐNG THẦN LINH
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4)
Thánh Thể đưa người lãnh nhận đến sự hiệp thông với Chúa Kitô. Nhờ việc rước Mình và Máu Chúa, chúng ta nên một với Người: được thông phần vào cuộc thương khó, cái chết và phục sinh của Người. Nhờ được thông hiệp với Đức Kitô, chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Cha, Đấng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, ngõ hầu chúng ta được hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự kết hợp với Chúa Kitô mang lại sự thay đổi cho cuộc đời chúng ta, và những sự biến đổi ấy không gì khác hơn là để ngày càng hiệp thông hơn với Ba Ngôi Thiên Chúa, điều mà các Giáo phụ Đông phương gọi là “thần hoá” (divinisatio) và qua đó, chúng ta bước vào sự hiệp thông sâu xa với anh chị em mình. Cuộc thần hóa đã thực sự bắt đầu từ Bí tích Rửa tội, Thêm sức và được nuôi dưỡng nhờ bí tích Thánh Thể: chúng ta được biến đổi để nên một với Chúa Giêsu, con yêu dấu của Chúa Cha (Ga 6, 56-57). Đó cũng là ý nghĩa của việc “hiệp lễ” (communio): chúng ta rước Mình Máu Thánh Chúa để được kết hiệp với Chúa Giêsu, và trong Người, chúng ta được kết hiệp với Thiên Chúa Ba ngôi và với tất cả các phần tử của gia đình Chúa (xc. GLCG số 1331).
“Các tín hữu cần tham dự thánh lễ cách tích cực và sống động, nhờ đó ngày càng củng cố mối hiệp thông với Chúa và với nhau trong Chúa.” Có lẽ để lời mời gọi này không trở thành một thứ biểu ngữ, chúng ta cần giúp cho người tín hữu thấy được vẻ đẹp lung linh huyền nhiệm nơi thánh lễ. Khi tham dự phụng vụ thánh lễ, đó là lúc chúng ta sống và làm tăng trưởng sự hiệp thông diệu kỳ của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Qua việc tham dự Phụng vụ thánh lễ, con người nuôi dưỡng và sống mối hiệp thông của mình với Thiên Chúa. Mối hiệp thông này lại được chính Thiên Chúa củng cố và đưa tới hoàn hảo. Con người được chiêm ngắm tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, được chiêm ngắm chính Thiên Chúa - Đấng hiện diện cách độc đáo duy nhất nơi Thánh Thể, được thông dự vào chính sự sống thần linh và hưởng nếm trước ‘hạnh phúc thiên đàng’. Sự gặp gỡ cá vị này sẽ càng thúc đẩy con người khao khát Thiên Chúa hơn, đồng thời hướng con người vào một lối sống đặc thù của những “tình nhân”: Sống trọn vẹn phút hiện tại, khao khát thuộc trọn về Chúa - nên thánh...
1. Bí tích Thánh Thể: Tăng trưởng và kiện toàn sự hiệp thông
Nếu nói Bí Tích Thánh Tẩy là cánh cửa dẫn vào đời sống hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với nhau, thì Bí tích Thánh Thể là Bí tích làm tăng trưởng sự hiệp thông đó (GLCG 1391). Quả vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56). Khi chúng ta rước lễ là chúng ta đón nhận chính Đức Kitô và hệ quả là chúng ta được kết hợp thân mật với Người, được thông dự vào sự sống thần linh của Người. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57) Chúa không chỉ ở lại với chúng ta mà còn ‘ở trong’ chúng ta. “Tiếp rước Thánh Thể là đi sâu vào mối thân tình hiệp nhất với Chúa Giêsu. “Các con hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong các con” (Ga 15,4). Mối giao hảo này “liên kết” chúng ta lại với Chúa một cách sâu xa và hỗ tương khiến chúng ta có thể nếm cảm được hạnh phúc thiên đàng ngay tại thế”[17].
Bí tích Thánh Thể không chỉ củng cố, mà còn đưa sự hiệp thông tới chỗ hoàn hảo, xét trong mọi chiều kích của sự hiệp thông này: “việc cử hành Thánh Thể không phải là khởi điểm của sự hiệp thông; bí tích này giả định đã có sự hiệp thông, một sự hiệp thông mà việc cử hành tìm cách củng cố và đưa đến chỗ hoàn hảo. Bí tích là một biểu hiện của mối dây hiệp thông đó, cả trong chiều kích vô hình, tức là, trong Đức Kitô và nhờ hoạt động của Thánh Thần, liên kết chúng ta với Chúa Cha và với nhau; lẫn trong chiều kích hữu hình, tức dẫn đến sự gắn bó với giáo huấn của các Tông đồ, các phép bí tích và phẩm trật của Hội thánh”[18] Nơi Thánh Thể, sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha được trở nên hoàn thiện qua việc chúng ta được đồng hóa với Người Con nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. “Trong Thánh Thể, “không giống như các bí tích khác, mầu nhiệm [hiệp thông] quá hoàn hảo đến nỗi bí tích này đưa chúng ta đến những đỉnh cao của mọi điều thiện hảo: đó là mục tiêu tối hậu của mọi khát vọng nhân loại, vì ở nơi đó chúng ta đến được với Thiên Chúa và Thiên Chúa kết hiệp với chúng ta trong sự kết hiệp hoàn hảo nhất”. Chính vì lý do này, quả là tốt đẹp khi nuôi dưỡng trong tim ta một lòng khao khát liên lỉ lãnh nhận bí tích Thánh Thể”[19].
Nơi Thánh Thể, con người được hiệp thông vào sự sống thần linh. Thế nhưng, một trong những điều tuyệt diệu tạo nên vẻ đẹp cuốn hút nơi Thánh Thể lại chính là việc chúng ta được chiêm ngắm, được sống tình bạn hữu thân thiết với Đức Giêsu và được sống tình Thầy-trò với Người cách đặc biệt, và duy nhất: Thầy, trò được ‘ở trong’ nhau.
Việc trở nên chi thể của Đức Kitô do Bí tích Thánh tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào Hy tế Tạ ơn, nhất là nhờ việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15,14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: “Kẻ ăn Tôi, sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc “ở trong” nhau giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: “Anh em hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4)[20].
1.1. Nơi Thánh Thể: Con người được chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa
Thiên Chúa