Header

Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên - Năm B (Mc 16,15-20) | Giáo Phận Phú Cường

avatarby Noel Quesson
11/05/2024
684
Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”.Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói:” Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa.

CHÚ GIẢI TIN MỪNG
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN - NĂM B
TIN MỪNG: Mc 16,15-20

Noel Quesson - Chú Giải

Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Mác cô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào đó một tác giả khác không phải là Thánh Mác cô (cách hành văn cũng có khác). Dầu vậy,đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh kinh đã được linh ứng.Nên đó cũng là “Lời Chúa như tất cả Tin Mừng”.Đàng khác chúng ta nhận thấy những câu này không có gì “mới lạ”.Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bảbn Tin Mừng khác.Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này

Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ:

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.

Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy:Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14).Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới – Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác, chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”.Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng:Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”:Không đếm xỉa đến việc họ không tin,Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn – Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách:”Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!

Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con – Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.

“Khắp thế giới “- “Tất cả loài người”.

Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người ngoại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ,thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời,”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”. Để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.

Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta.Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.

Anh em hãy loan báo Tin Mừng.

Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”.Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói:” Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.

Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.

Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự thông tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: “Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.

Làm sao hiểu được điều này?

Hiểu đơn giản như sau: Ngoài tin mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “Chỉ là một con người” mà thôi. “Kẻ nào tin … kẻ nào không tin…” Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn - Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.

Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trê những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.

Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.

Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạ được tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ấn báu của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).

Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.

Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 

Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1.9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này:Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh kinh trong Thánh vịnh 110/1: “Lời truyền dạy của thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.

Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.

Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…

 Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.

Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “Ngự br6n hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của một lời nói.

Giáo phận Nha Trang - Chú Giải

"Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa"

BÀI TIN MỪNG: Mc 16, 15 - 20

1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay của thánh Máccô thuật lại việc trước khi chấm dứt sứ mệnh ở trần gian để về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mệnh tiếp tục công việc của Người, là rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Vì thế qua bài Tin Mừng, chúng ta cũng thấy viễn tượng truyền giáo của Giáo Hội.

2. SUY NIỆM:

1/ " Khi ấy Chúa Giêsu hiện ra với 11 môn đệ ":

+ Sau khi sống lại, đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với nhóm 11 Tông đồ, và lần này có sự hiện diện của hai môn đệ đi Làng Emmaus vừa trở lại báo tin việc Chúa hiện ra với họ ở dọc đường. Bản văn Máccô bỏ lời quở trách về sự cứng lòng tin và bắt đầu ngay lệnh truyền cho họ đi rao giảng Tin Mừng.

+ Và phán: Biểu lộ ý nghĩa một lệnh truyền phải được thực hiện. Lệnh này trước đây Người chỉ loan báo chứ không ra lệnh " Các con sẽ là những tay chài lưới người...".

Lệnh ban ra sau khi Người phục sinh, điều này chứng tỏ biến cố phục sinh của Người là nền tảng cho việc rao giảng Tin Mừng của các Tông đồ và của Giáo Hội sau này.

2/ " Các con hãy đi khắp thế gian ":

+ Khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu chỉ rao giảng cho dân Do thái thôi " Ta chỉ được sai đến các chiên lạc của nhà Israel..."

+ Nhưng việc " Đi khắp mọi nơi " được trao lại cho các Tông đồ và Giáo Hội sau này.

Ở đây biểu lộ ý nghĩa tính cách phổ quát trong việc truyền giáo của Giáo Hội.

+ " Rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật ":

- Tin: là tin từ trời ban xuống có nghĩa là Chúa Giêsu được sai xuống thế gian để cứu chuộc nhân loại.

- Mừng: là niềm vui, là hạnh phúc tức là sự sống đời đời.

- Mọi tạo vật: mang ý nghĩa Tin Mừng sẽ biến đổi mọi tạo vật thành trời mới đất mới, là vương quốc cánh chung.

+ " Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ ":

- Tin là đón nhận: đón nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc trần gian.

- Chịu phép rửa là thanh tẩy con người cũ thuộc ma quỷ để mặc lấy con người mới thuộc về Chúa Kitô.

Như vậy tin và chịu phép rửa là biểu lộ lời đáp của nhân loại trước Tin Mừng được loan báo để được sự sống đời đời.

+ "Ai không tin sẽ bị luật phạt ": Chúa có ý nói đến hình phạt dành cho những người không đón nhận Tin Mừng. Hình phạt này không do Thiên Chúa thực hiện, nhưng do chính đời sống từ chối Thiên Chúa và theo sự xấu là bản án cho họ. Điều này thánh Gioan có nói ở 3, 19.

+ Đây là những phép lạ đi kèm theo những người đã tin. Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thực hiện những phép lạ để làm dấu chỉ cho sứ mệnh cứu rỗi của Người. Ơn làm phép lạ này Chúa cũng hứa ban cho các Tông đồ là những người tin đầu tiên của Người. Điều này đã được Gioan ghi lại trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu đối với các Tông đồ: " Kẻ nào tin vào Ta thì việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm..." (Ga 14, 12 )

Nhưng ở đây chính Máccô có ý nói lên rằng những dấu lạ kèm theo và củng cố lời rao giảng của các Tông đồ không luôn luôn được thực hiện bởi tay họ, nhưng lắm lần Thần khí xem ra đã thực hiện trực tiếp và qua các thính giả như trường hợp nói " các thứ tiếng lạ " của Comêliô (Cv 10, 44 - 46 ). Vì thế, phép lạ đối với người làm, tức là các Tông đồ, có giá trị để làm chứng cho Tin Mừng rao giảng, còn đối với người nghe thì nó trở nên dấu chứng cho hiệu quả của lòng tin (x. Cv 28, 36 ).

+ Nhân danh Thầy: Nhân danh ai thì thực hiện theo ý người ấy. Điều này muốn nói lên rằng hoạt động nội tại của phép lạ mà các kẻ tin làm là chính quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế nhờ quyền năng của Thiên Chúa qua hoạt động của Thánh Thần, những kẻ tin có thể thực hiện được những việc mà tự sức con người không thể làm được như trừ quỷ, nói các tiếng lạ...

4/ " Chúa Giêsu lên trời ":

Sau khi phục sinh, thì thân xác phục sinh của Chúa Giêsu không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa. Vì vậy việc Người lên trời không có ý nghĩa chỉ nơi chốn của vị trí nào, nhưng có ý diễn tả thân xác Người không còn hiện diện theo cách thức như người còn ở trần gian trước khi tử nạn và phục sinh nữa, mà hiện diện theo cách thế của vị Thần linh Thiên Chúa, vì Người về cùng Thiên Chúa Cha.

+ " Và ngự bên hữu Thiên Chúa ": Đây là một kiểu nói bóng ám chỉ Chúa Kitô, với tư cách là người tham dự vào vinh quang Chúa Cha và tham dự uy quyền vào việc cai trị cả vũ trụ (Mt 28, 18; Cv 17, 14; 19, 16; Ep 1, 20 - 29 ).

5/ " Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi ":

Sau khi đã chứng kiến xong việc Chúa Giêsu về trời, các Tông đồ bắt đầu thi hành lệnh Chúa đã truyền là đi rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi.

+ Có Chúa hoạt động với các ông: Đây là lời của Máccô có ý xác quyết rằng trong mọi hoạt động truyền giáo của các Tông đồ và sau của Giáo Hội đều có sự hiện diện vô hình nhưng hữu hiệu của Chúa Kitô... (Mt 20, 28).

III. ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin Mừng:

1. Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, Giáo Hội muốn cho chúng ta xác tín vào sự sống đời sau và vào quê hương Nước Trời của ta, nơi mà những người đã được diễm phúc nếm thử, đã cảm nghiệm và diễn tả rằng:

- Các Tông đồ ngây ngất nhìn về phía trời (Cv 1, 9 - 10 ) ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê ngây ngất ngắm nhìn Chúa biến hình ( Mt 17, 1... )

- Phaolô thốt lên rằng: " Và tôi biết rằng người ấy đã được nhắc vào thiên đàng..." (2 Cv 12, 2 - 4 ).

" Quả thật, tôi quyết rằng những đau khổ đời này không đáng là gì so với vinh quang đã hòng tỏ hiện ra cho ta " (Rm 8, 18 ).

2. Nhiệm vụ xây dựng trần thế theo tinh thần của Chúa Kitô cũng như Giáo Hội, chúng ta chưa thể mơ ước về trời bao lâu nhiệm vụ trần thế chưa hoàn thành theo ý Chúa. Vì vậy chúng ta phải tha thiết xây dựng trần thế nơi bản thân, nơi tha nhân, nơi gia đình, ngoài xã hội và môi trường ta đang sống, theo tinh thần của Chúa Kitô.

3. Ý thức hơn về vai trò tông đồ và truyền giáo của mình khi chúng ta tuyên xưng: " Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến ".

B/ Áp dụng thực hành:

1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:

a) Trước khi về trời, Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ. Trước khi thay đổi nhiệm vụ, một công việc, chúng ta phải tạo những điều kiện thuận lợi cho người kế tiếp được thi hành cách hữu hiệu hơn, tốt đẹp hơn...

b) Chúa Giêsu về trời nhưng Người vẫn còn hoạt động cách vô hình với các Tông đồ. Tuy chúng ta đã rời bỏ nhiệm vụ hay nhiệm sở cũ, nhưng chúng ta không quên tìm mọi cách thế theo khả năng của mình để khích lệ, nâng đỡ và trợ lực cho người còn lại... tiếp tục công việc của ta. Tránh thái độ can thiệp vượt quá thẩm quyền mình, nhưng đồng thời cũng tránh thái cực chủ trương bỏ đi là hết, việc bay mặc bay...

2/ Nhìn vào các Tông đồ:

Các Tông đồ lãnh sứ mạng truyền giáo... Chúng ta qua bí tích Rửa tội, thêm sức, qua lời khấn... cũng được Chúa Giêsu trao ban sứ mệnh tông đồ truyền giáo trong mọi nơi mọi lúc và cho hết mọi người mà chúng ta có liên hệ với.

Có Chúa cùng hoạt động với các Tông đồ: khi thành công, người tông đồ không tự mãn, vì ý thức rằng công việc kết quả có được là bởi Chúa, lúc thất bại không nản chí tuyệt vọng vì có Chúa cùng hoạt động với.

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

Địa chỉ: Số 06, Tôn Đức Thắng, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

Copyright © CHỦNG SINH KHÓA 10

CHIA SẺ BÀI VIẾT