Header

Chú Giải Tin Mừng - Chúa Nhật Tuần XVI Thường Niên B

avatarby
17/07/2021
897
Lòng yêu thương nhân lành của Chúa Giêsu - vị Tông đồ kiểu mẫu - đã được biểu lộ qua cử chỉ săn đón các tông đồ đi truyền giáo trở về và qua lòng trắc ẩn xót thương đối với đám dân chúng theo Người.

CHÚ GIẢI KINH THÁNH

CHÚA NHẬT 16 MÙA THƯỜNG NIÊN NĂM B


(Mc 6,30-34)

Học Viện Piô Giáo Hoàng - Chú Giải

CHÚA GIÊSU, CÁC MÔN ĐỆ VÀ DÂN CHÚNG

(Mc 6,30-34)

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Bố cục trình thuật này thế nào? Có nên chấm dứt nó ở c.34 không?
  2. Động từ "chạnh lòng thương xót" (c.34) thường được dùng ở đâu và áp dụng cho ai?
  3. Hình ảnh "cừu chiên không có chủ chăn" phải chăng là một sáng tác độc đáo của Tin mừng? Nó có ý nghĩa gì ở đây?
  4. Tại sao Chúa Giêsu giảng dạy để chứng minh lòng thương xót đối với đàn chiên lạc lõng?
  5. Tại sao chỉ ở đây (c.30), nhóm Mười hai được mang tên "môn đệ"?
  6. Vì sao bản tường trình của các môn đệ chỉ gồm trong hai vấn đề: làm và dạy?
  7. Đâu là ý nghĩa của Lời Chúa Giêsu mời các môn đệ đi riêng ra nơi hiu quạnh để nghỉ, sự thất bại của dự tính và việc Người bảo họ tham gia vào chuyện thiết đãi đám đông?
  8. Trình thuật này mạch lạc trên phương diện nào?

Đây là một trình thuật hết sức nhộn nhịp. Các môn đệ trở về từ chuyến truyền giáo mà Marco đã nói trước đây (6,7-13). Họ báo cáo lên Chúa Giêsu, Đấng đã sai họ. Trong những hoàn cảnh đó, nghe nói đến vấn đề nghỉ ngơi là điều chẳng ai ngạc nhiên. Nhưng nghỉ ngơi làm sao được lúc mà người ta lui tới đông đảo như thế, đông đến nỗi các môn đệ không thể dùng bữa. Phải đi riêng ra, tìm nơi hiu quạnh, và chiếc thuyền cho phép họ rút êm. Nhưng vô ích! Người ta đã thấy các ông và nhiều kẻ hiểu ý. Thế là thiên hạ đổ xô đi. "Từ hết các thành", người ta truyền tin cho nhau chạy theo và vượt đến địa điểm trước cả những kẻ lánh nạn. Sau khi gợi lên cảnh các môn đệ tẩu thoát và đám hiếu kỳ đuổi theo như thế, trình thuật dừng lại nơi hình ảnh: đứng trước dân chúng, Chúa Giêsu động lòng thương, Người bắt đầu giảng dạy họ lâu giờ (nguyên từ "nhiều": hoặc "nhiều điều" hoặc "nhiều thời gian", x. câu 35).

Được đọc như thế, trình thuật có dáng dấp một bài phóng sự. Và người ta sẽ không khỏi ca ngợi nghệ thuật kể chuyện của Marco đã biết làm sống lại dưới mắt chúng ta nhiều cảnh cụ thể, y như thật về cuộc đời Chúa Giêsu. Và trên trớn đó, ta dễ đề cao, trong một mục đích xây dựng, sự ân cần của Chúa Giêsu đối với các môn đệ (chính Người quan tâm sắp xếp việc nghỉ ngơi cho họ), sức thu hút của Người đối với đám đông (nếu Người trốn họ, họ cũng tìm được cách tới trước chỗ Người định đến), việc không thể chạy trốn các đòi hỏi của sứ mệnh (chương trình nghỉ ngơi đẹp đẽ phải bỏ), tình thương của Chúa Giêsu đối với dân chúng, sự hiểu biết của Người về các nhu cầu thực sự của họ (một đoàn chiên không có chủ chăn), tầm quan trọng của Người gán cho việc giáo huấn... Khỏi cần nhấn mạnh là trình thuật dễ dàng "được khai thác" trong những chiều hướng khác nhau đó.

Nhưng một phân tích cặn kẽ hơn về bản văn bắt ta phải kiểm xét lại hoặc phải phủ nhận những cảm tưởng đầu tiên khi mới đọc nó trên, vì bản văn có nhiều điều khác để nói với chúng ta nữa. Hãy bắt đầu bằng cách xem xét nó đã được xây dựng thế nào, các yếu tố liên hệ với nhau ra sao, làm cách nào mà trình thuật "chuyển động"?

I. PHÂN TÍCH BẢN VĂN
1. Bố cục trình thuật

Trình thuật đặt nổi một lô tương quan giữa các nhân vật. Và từ quan điểm này, ta có thể phân nó ra làm bốn hồi tương ứng với nhau từng đôi.

  1. Các môn đệ về với Chúa Giêsu và tường trình cho Người sứ mệnh của họ;
  2. Chúa Giêsu đề nghị họ tìm nơi thanh vắng mà nghỉ;
  3. Dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu;
  4. Chúa Giêsu trông thấy dân chúng, động lòng và giảng dạy.

Bốn hồi này liên kết với nhau trong một động tác đưa chúng ta chú ý tới hồi sau cùng. Hồi một dọn đường cho hồi hai. Hồi hai đưa ra một dự tính (tìm nơi thanh vắng để nghỉ) và tạo nên một sự "hồi hộp": dự tính sẽ thực hiện được không? Xem ra được nhờ có thuyền. Thế nhưng hồi ba lại đưa vào một trở ngại, đến nỗi ở hồi bốn, dự tính phải hủy bỏ. Trong tình thế mới này (Chúa Giêsu đối diện với dân chúng), một yếu tố mới can thiệp: lòng trắc ẩn đối với đàn chiên không chủ chăn, và lòng trắc ẩn đó kéo theo việc giảng dạy lâu giờ.

Thành thử tính cách năng động của tính thuật bảo đảm được một sự giằng co, căng thẳng giữa việc nghỉ ngơi sau hoạt động truyền giáo và việc giảng dạy của Chúa Giêsu, giảng dạy lúc mà đã dự trù đi nghỉ. Có một sự tương phản giữa sự cần thiết phải lãnh trách nhiệm về dân chúng với sự nghỉ ngơi.

Nếu dừng lại ở đó, thì hai hồi đầu tiên xem ra chỉ có mục đích, xuyên qua biến chuyển của hồi ba, làm nổi bật hồi bốn. Lòng xót thương của Chúa Giêsu đối với đám đông và việc Người giảng dạy họ sẽ làm lu mờ bức tranh vẽ ra cho ta về các tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Ngoài ra, một điều đáng chú ý là trong hồi bốn, như trên một sân khấu kịch trường, tất cả ánh sáng đều tập trung vào Chúa Giêsu: người ta không còn nói đến các môn đệ nữa (từ số nhiều: "đã đón rước họ", người ta đột ngột đi sang số ít: "vừa lên bờ, Người đã thấy đám đông").

2. Phần tiếp của trình thuật

Dẫu thế, các môn đệ vẫn không bị bỏ quên. Chính ở đây chúng ta phải chịu một sự cắt ngang (do bản văn phụng vụ) tách rời năm câu trong một lúc chúng còn mang một trình thuật khai triển hơn nữa. Bởi vì trình thuật này cho các nhân vật di chuyển vào một nơi hoang vắng nên nó không chấm dứt trước khi họ rời nơi ấy ở câu 45.

Hồi bốn của chúng ta, thay vì kết thúc, lại đánh dấu một sự tạm dừng trước khi hoạt động lại. Lời nhận xét về việc giảng dạy nhiều điều, tức là lâu giờ (c.34) chuẩn bị cho nhận xét tiếp theo về giờ giấc đã muộn (c.35) và về sự tái xuất hiện của các môn đệ. Phần tiếp nhấn mạnh đến cách thức Chúa Giêsu đưa họ vào việc, trong màn đối thoại ở cc.35-38 ("Thì các ngươi hãy cho họ ăn... Hãy đi xem...") rồi khi Người bảo tiếp dân chúng thành tổ (39-30) và nuôi họ (c.41). Việc nhấn mạnh đến vai trò tích cực của các môn đệ như thế làm cho chi tiết 12 giỏ mảnh vụn (c.43) trở nên dễ hiểu: còn bánh để dành lo những kẻ khác ngoài năm ngàn người đã được ăn no nê, chính nhờ nhóm Mười hai mà Chúa Giêsu mở tiệc mời dân chúng. Thay vì bị mối lưu tâm đối với Chúa Giêsu và dân chúng làm lu mờ, như người ta có thể tưởng khi dừng lại ở c 35, thì sự lưu tâm đối với Chúa Giêsu và các môn đệ lại vượt quá và bao trùm sự lưu tâm nói trên.

3. Lịch sử việc biên soạn

Câu kết luận vừa nêu được xác nhận bởi nhiều dẫn chứng cho biết cách thức mà bản văn này đã được biên soạn. Các nhà phê bình thường đồng ý là Marco đã góp phần quan trọng trong việc ráp nối các dữ kiện truyền thống nơi cc.30-34. Không thể hồ nghi việc trình thuật hóa bánh ra nhiều thứ nhất (cũng như trình thuật hóa bánh ra nhiều thứ hai) và trình thuật về sứ mệnh nhóm Mười hai của ông (Mc 6,7-13) là do truyền thống. Vấn đề của ông đã là thiết lập một nhịp cầu giữa cả hai bản văn. Tất cả sự mạch lạc của cc.30-34 là do ở ý định muốn đặt Chúa Giêsu đối diện một đàng với các môn đệ mà Người đã sai đi truyền giáo và đàng khác với đám đông năm ngàn người trong sa mạc. Ý định này khiến thánh sử lưu tâm đến giáo thuyết hơn là truyện ký đơn thuần: lưu tâm đến việc khai tâm cho các môn đệ mà Chúa Giêsu tiếp tục trong lúc vẫn chăm nom đám đông đến cùng Người [Thành thử chúng tôi cho Marco là người đã liên kết trình thuật này với trình thuật sứ mệnh nhóm Mười hai và cuộc trở về của họ. Mattheu liên kết trình thuật chúng ta với cái tin Gioan bị xử tử (14,13). Nhưng việc liên kết này không "nguyên thủy" bằng việc liên kết của Marco vì Mattheu có khuynh hướng cho thấy trong đời Chúa Giêsu một loạt cuộc rút lui trước sự thù nghịch của nhiều địch thủ khác nhau: 2,14.22; 4,12; 12,15; 14,13,15,21].

Thành ra ta chớ xem các câu 6,30-34 như là một mẩu chuyện, một "mẩu đời". Sứ điệp của nó có thể tóm lại quanh hai trục:Chúa Giêsu với dân chúng, Chúa Giêsu với các môn đệ.

II. CHÚA GIÊSU VỚI DÂN CHÚNG

Bởi vì trình thuật nhắm đặt Chúa Giêsu đối diện bởi dân chúng, nên trước hết ta hãy trình bày những gì nó gợi lên về mối tương quan giữa Người với họ. Theo Mc, Chúa Giêsu có một sức thu hút dân chúng đặc biệt ngay từ lúc người xuất hiện lần đầu (1,33). Dù Người có lẩn vào hoang địa cũng vô ích. Họ từ khắp nơi tuôn đến, lấn xô Người, ngăn trở Người và các môn đệ dùng bữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21-24; 6,54-56; 9,15; 10,1-46). Qua suốt cuốn sách, họ luôn luôn có thiện cảm với Người, cho tới khi bị các thượng tế lèo lái trong cuộc kiện cáo trước tòa Philatô (15,11). Chẳng bao giờ Người từ rẫy họ, dẫu đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24-35; 9,30). Có lúc Người gọi họ đến với người nữa (7,14; 8,3). Sự hiện diện hay vắng mặt đám đông không phải bao giờ cũng như nhau. Cách Chúa Giêsu cư xử với họ luôn luôn có ý nghĩa: theo Marco, nó biểu lộ một khía cạnh chủ yếu của sứ mệnh Người. đặc biệt đó là trường hợp ở đây, trường hợp họ đến cách bất ngờ, ngay lúc Chúa Giêsu muốn tránh họ. Thành thử mỗi một tiếng của câu 34 cần được cân nhắc.

1. "Người chạnh lòng thương xót họ... "

Động từ "chạnh lòng thương xót" (splagchnizomai) gợi lên một tâm tình sâu xa bắt nguồn từ đáy lòng và diễn tả ra bằng một hành vi giúp đỡ đặc biệt cho một người khác. Dù ít dùng trong các Tin mừng, động từ này vẫn luôn luôn có một ý nghĩa rất mạnh. Trong các dụ ngôn, nó diễn tả tâm tình của ông chủ tha món nợ khổng lồ cho tên đầy tớ van xin (Mt 18,22), và của người cha xúc động khi thấy đứa con hoang trở về (Lc 15,10): các dụ ngôn này muốn nói lên lòng thương xót con người của Thiên Chúa. Khi cũng một động từ này, trong một dụ ngôn khác, biểu thị cách cư xử của người Samari nhân hậu (Lc 10,33), thì phải nhận ra ý nghĩa của nó: diễn tả một thái độ mới nói lên tình yêu tha nhân như Chúa Giêsu mặc khải (xem việc dùng từ splagchna trong Pl 1,8;2,1; Cl 3,12; 1Ga 3,17). Ngoài những dụ ngôn trên, thì động từ splagchnizomai chỉ được các Tin mừng dùng cho Chúa Giêsu, và đó không phải là một sự tình cờ. Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Người chữa lành hai kẻ mù trong (Mt 20,34), trả lại đứa con cho bà góa thành Naim (Lc 7,13), tẩy sạch một kẻ phong cùi (Mc 1,41), trả lại sức khỏe cho đứa con của một người cha nại đến lòng Người thương xót (Mc 9,22). Ta có thể nhận ra trong những bản văn này một sự nhấn mạnh đặc biệt đến tính cách thiên sai của các phép lạ chúa Giêsu, dấu chỉ của ơn cứu rỗi tiên hứa mà người ta đã chờ đợi từ lòng nhân ái của Thiên Chúa (x. Lc 1,78; Gc 5,11...).

Lòng lương xót của Chúa Giêsu xuất hiện qua hai trình thuật bánh hóa nhiều, nhưng lại mang hai tính chất khác nhau. Trình thuật thứ hai xem ra tự nhiên hơn đối với con người hiện đại: Chúa Giêsu động lòng thương xót vì thấy dân chúng đói (Mc 8,3; Mt 15,32). Trình thuật thứ nhất theo Mattheu nằm trong đường hướng các trình thuật phép lạ: lòng thương xót thúc đẩy Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân (Mt 14,14). Còn Marco làm chúng ta ngạc nhiên vì lý do trắc ẩn: "Và họ như cừu chiên không có chủ chăn", và vì cách diễn lòng thương đó ra hành động: "Và người bắt đầu giảng dạy nhiều điều" (6, 34). Phải chăng ở đây Luca đã cảm thấy một khó khăn nào đó? Dù sao thì khi đề cập đến việc giảng dạy của Chúa Giêsu như Marco (và việc chữa lành như Mattheu), thì ông không nói đến lòng thương, mà nói đến việc niềm nở tiếp đón dân chúng (9,11). Dầu nghĩ thế nào về mối tương quan giữa các bản văn khác biệt đó, thì việc so sánh chúng vẫn làm nổi bật nét lạ lùng của bản văn chúng ta. Hãy nhìn kỹ nó hơn nữa.

2. "…Vì họ như cừu chiên không có chủ chăn... "

"Như cừu chiên không chủ chăn"? Mấy tiếng này có vẻ như một hoài niệm, nếu không phải là trưng dẫn rõ ràng Cựu ước trong đó hình ảnh này trở đi trở lại nhiều nơi. Hình ảnh nói lên trạng huống nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa thiếu thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho quân thù (1V 22,17; 2Sk 18,16; Gd 11,19), bị vua chúa lãng quên và từ bỏ, lang thang lạc lõng không người dẫn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Trong số các bản văn này, bản văn chúng ta xem ra gần giống với Ds 27 và Ed 34 hơn hết, không những trên diện tự mà còn vì những chủ đề được liên kết trong đó nữa. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết và vì muốn có người thay thế, đã cầu xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh cho cộng đoàn sa mạc của ông: thế mà trình thuật của chúng ta cũng nhớ tới Môsê và thức ăn lạ lùng của Israel trong sa mạc. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa sắp săn sóc đoàn chiên Ngài (c.11), đưa chúng đến đồng cỏ xanh tươi, (c.14), kiếm cho chúng chỗ nghỉ, (các.14-15) và sẽ đặt một mục tử "tôi tớ Đavít của ta" (c.23) để dẫn dắt chúng. Một số các chủ đề này trở lại trong thánh vịnh 23, thánh vịnh ca tụng Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài: "Trên đồng cỏ xanh tươi, Ngài để tôi vào nghỉ. Bên dòng nước trong lành dẫn tôi về bổ sức... Chúa dọn sẵn cho con mâm cỗ trước mặt quân thù" (Tv 23,2-3.5).

So sánh với các bản văn trên đây, nhiều chi tiết của trình thuật chúng ta được nổi bật: niềm ân cần lo lắng của Chúa Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ Người, việc tập trung dân chúng, bữa ăn trên thảm cỏ xanh, sự dồi dào lương thực... Có thể tin rằng: trình thuật này đã được viết cho một quần chúng có khả năng lãnh hội được những ám chỉ dồi dào của nó về những sấm ngôn tiên báo ơn cứu độ. Những ám chỉ này có nhiều nhưng không bị phân tán; chúng phác họa ra hình ảnh mục tử thiên sai mà ta nhận ra được nơi Chúa Giêsu. Thành thử ở đây, lời nhận xét bầy chiên không có chủ chăn được đặt thật đúng chỗ. Và khi làm cớ cho lòng thương xót của Chúa Giêsu, nó nhấn mạnh đến đặc tính của tâm tình này. Qua nó, lòng nhân từ của Thiên Chúa được tỏ hiện vào lúc mà Người sửa soạn hoàn tất các lời hứa của Ngài bằng cách tụ họp và ban cho dân Ngài ân sủng đầy dư.

3. "… và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều".

Giảng dạy để chứng minh cho lòng thương xót: đó là điều thật đáng kinh ngạc. Chúng ta thấy các bản văn Mattheu và Luca dễ hiểu hơn: Chúa Giêsu chữa bệnh và giảng dạy thì không phải vì lòng thương xót. Hơn nữa, nhiệm vụ của mục tử chẳng phải là dạy dỗ, nhưng là nuôi sống đoàn chiên. Phải chăng Marco đã làm đứt đoạn một trình thuật mà lúc đầu mạch lạc hơn vì không có chi tiết "giảng dạy" ấy?

Dù giả thiết thế nào đi nữa, thì bản văn Marco vẫn gán một tầm quan trọng lớn lao cho cảnh này và được diễn tả theo cách ông thường đề cập đến việc giảng dạy của Chúa Giêsu. Về đề tài này, bây giờ có "mốt" thích đối chiếu sự phong phú của Mattheu với sự nghèo nàn của Marco, là tác giả ít ghi lại Lời Chúa Giêsu hơn cả. Chắc chắn Mc biết truyền thống về các lời này. Vậy tại sao ông chỉ múc lấy trong đó một cách hà tiện và lại không bỏ một cơ hội nào để ghi chú rằng Chúa Giêsu giảng dạy mà chẳng xác định Người đã dạy chi? {Mc 1,21-22; 2,13; 6,2.6b.34; 10,1;11,18; x. 14,49}. Đối tượng chỉ được xác định trong các dụ ngôn (4,2), trong lời loan báo chết và sống lại (8,31; 9,31), trong một lời Kinh Thánh trích dẫn (11, 17; 12,35.38), trong câu nói của những kẻ đến bẫy Chúa Giêsu (12,14). Về việc giảng dạy của Chúa Giêsu theo Marco, xem J. Delorme, De Jésus aux évangiles, Gembloux-Paris, 1967, trang 84tt}. Đặc biệt đó là khi đoàn lũ dân chúng tụ họp bên Người (2,13; 4,1-2; 6,34): thói quen của Người là vậy, Marco xác định thế (10,1). Nhưng tại sao ông nhấn mạnh như vậy?

a. Thay vì đưa ra các chủ đề khác nhau của giáo thuyết Chúa Giêsu, Mc trình bày việc biểu lộ cách kín đáo, bị hiểu sai và khó lãnh hội, về sứ mạng và con người Chúa Giêsu ("bí mật" của Người). Chính trên quan điểm này, sự kiện Người giảng dạy có một ý nghĩa mặc khải.
 

Ngay sau bản tóm tắt lời rao giảng của Chúa Giêsu ở Galilê (1,14-15) và việc gọi bốn môn đệ (16-20) để thực thi sứ mệnh sắp đến (c.17), Mc cho ta thấy Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum (21-28). Không một ám chỉ nào về điều Chúa Giêsu đã nói. Nhưng các thính giả thì "kinh ngạc về giáo huấn của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền chứ không như các ký lục" (c.22). Đoạn đến việc chữa lành người bị quỷ ám. Và Marco kết luận: mọi người đều kinh hoảng đến nỗi họ bàn tán với nhau: thế nghĩa là gì, thật là một giáo huấn mới, được ban cách quyền uy! Người còn truyền khiến được các thần ô uế và chúng vâng nghe Người (c.27). Giáo huấn và phép lạ đều gây bối rối vì mặc khải một uy quyền (exousia) siêu việt. Uy quyền này, Chúa Giêsu sử dụng rồi sẽ ban cho nhóm Mười hai để khử trừ ma quỷ (3,15; 6,7), làm dấu cho biết vương triều Satan đã bị một vương triều mạnh hơn tấn công, vì rằng Thần khí của Thiên Chúa đã can thiệp (3,27; 29-30). Uy quyền này, Chúa Giêsu biểu lộ trước tiên qua việc giảng dạy của Người. Do đó Mc đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần nỗi kinh ngạc của thính giả (1,22; 6,2; 11,18) cũng như của những kẻ chứng kiến một phép lạ (7,37). "Bởi đâu ông ấy được như thế? Sự khôn ngoan được ban xuống cho ông cùng các việc quyền năng do tay ông làm ra là gì vậy"? (6,2). Qua lời giảng dạy, lời đạp đổ quyền lực Satan của Chúa Giêsu, Thiên Chúa hành động để thiết lập Vương triều của Ngài. Vả lại theo Mc, đó là chủ đề then chốt của Lời Chúa Giêsu rao giảng cho dân chúng (1,15; 4,10.26.30).

Do đấy, việc giảng dạy của Chúa Giêsu chẳng còn gây ngạc nhiên trong một trình thuật nhấn mạnh đến lòng thương xót của Người đối với đàn chiên bị ruồng bỏ, và sắp giới thiệu Người như vị mục tử thiên sai. Khi giảng dạy là: lúc Chúa Giêsu bày tỏ uy quyền theo nghĩa sâu xa của từ ngữ. Người biểu lộ sứ mệnh của Người trước lúc cho thấy là, như lời đã hứa, Người đến tái tập họp và làm cho no thỏa đàn chiên bị bỏ rơi mà Thiên Chúa sắp trông nom lại.

b. Khi dừng lại lâu trên việc giảng dạy của Chúa Giêsu, trình thuật của Mc, thay vì bị đứt đoạn, lại làm nổi bật tính cách hợp lý của một cơ cấu sâu xa vốn làm cho nó giống với nhau đoạn văn Kinh Thánh khác, và giúp xác định ý nghĩa của nó. Sự nghiệp của Môsê đã từng có đặc tính là vừa mặc khải lời Thiên Chúa vừa cung cấp của ăn bởi trời (Nh 9,13-15). Mối tương quan này được nhấn mạnh trong Đệ nhị luật 8,3: Giavê "đã làm cho ngươi cảm thấy đói, rồi Ngài đã cho ngươi ăn manna... để dạy cho ngươi biết người ta không phải chỉ sống nhờ bánh nhưng bởi những gì do miệng Thiên Chúa xuất ra" (x. Kn 16,28).
 

Khi Chúa Giêsu, Môsê mới, nuôi dân trong hoang địa, thì việc Người giảng dạy sao lại đáng ngạc nhiên? Theo tư tưởng Thánh Kinh, điểm này không xa lạ gì đi sứ mệnh mục tử của Người. Lời cầu xin của nhà thi sĩ thánh vịnh khát vọng Lời Chúa làm chứng điều đó: "Tôi phiêu linh như con chiên lạc xin tìm kiếm tôi tớ Ngài" (Tv 119,176; x. câu 131). Và chính đoàn chiên mà Thiên Chúa chăn dắt được kêu mời nghe tiếng Ngài để vào nơi an nghỉ (Tv 95,7-8. 11). Trong Tin mừng thứ tư, cùng một luận lý tương tự nối kết trình thuật hóa bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh sự sống (6,26-58). Phép lạ manna, mà dấu chỉ của Chúa Giêsu làm liên tưởng tới, thì thua xa bánh thật bởi trời là chính Chúa Con, Đấng mà nhờ đó "tất cả sẽ được Thiên Chúa giảng dạy" (6,31- 35.45).

c. Sau hết sự mạch lạc của trình thuật Marco có thể được biện minh nhờ cơ cấu các chức năng Giáo hội (fonctions ecclésiales) trong đời sống của các cộng đoàn mà từ đó tác giả đã nhận truyền thống. Trình thuật này có nhiều quan hệ với trình thuật cổ truyền (bắt nguồn từ phụng vụ) nói về việc thiết lập Thánh Thể so sánh 6,41 với 14,22). Tất cả đều khiến ta tin rằng Marco đã lấy trình thuật của ông từ bài giáo lý đi theo sau việc "bẻ bánh" trong những cộng đoàn Do Thái - Kitô giáo. Trong thói quen thực hành của các buổi hội họp, giảng dạy và bẻ bánh đã thường đi đôi với nhau (x. Cv 2,42; 20,7; lạc 24,25-32) và còn đi đôi với nhau nữa.
 

Vì hễ là công việc của Thiên Chúa giữa loài người, thì lời nói và hành động bất khả phân ly. Theo Marco, Lời Chúa Giêsu đi trước hành động (1,11-27; 6,1-6; hãy lưu ý tương quan giữa 4,1-34 và 4,35-5,43). Lời Người đã là hành động, hành động gây ngạc nhiên nhờ uy quyền siêu phàm mà nó tỏ cho thấy. Ở đây, lời biểu lộ tình yêu của mục tử đối với đàn chiên bằng việc chuẩn bị, cung cấp cho họ sự duy nhất và của nuôi mà Người mang đến.

III. CHÚA GIÊSU VÀ CÁC MÔN ĐỆ

Việc phân tích bản văn đã cho ta thấy rằng cách thức Chúa Giêsu cư xử với dân chúng phải được hiểu trong tương quan với sự săn sóc của Người đối với môn đệ.

Văn mạch cung cấp cho ta sợi dây mà ta nên nắm chặt. Đó là trong Marco, ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng, thì chẳng có sự gì xảy ra mà lại không có mặt các môn đệ (chỉ có một trường hợp ngoại lệ là 7,24-30), nơi các môn đệ xem ra bị bỏ quên, nhưng vẫn hiện diện trong văn mạch. Việc gọi 4 môn đệ đầu tiên (1,16-20) mà tên sẽ được ghi trong danh sách nhóm Mười hai (3,16-18), đi trước việc tỏ mình của Chúa Giêsu tại hội đường Capharnaum lần thứ nhất (1,21-27). Nhóm Mười hai sẽ chỉ rời sân khấu suốt thời gian đi giảng đạo (6,14-29) và, một điều lạ lùng là Marco không nói gì về Chúa Giêsu trong thời gian đó. Trong nhãn giới này, đặc biệt Marco, mối tương giao của Chúa Giêsu với dân chúng hoặc với bất cứ kẻ nào đều luôn được nhóm Mười hai hoặc ít ra là một vài người trong các ông chứng kiến. Không có gì được ghi lại mà không liên quan tới các ông.

Nói cho rõ, thì mối liên lạc giữa Chúa Giêsu và nhóm Mười hai đã được thắt chặt từ khi Người chọn họ (3,13-19), khác hẳn với sự gắn bó hời hợt của dân chúng (3,7-12) hay sự chống đối của bà con Chúa Giêsu và của các ký lục tới từ Giêrusalem (3,20-35). Qua hai cánh của bức song bình, Marco đã cho thấy làm sao việc giảng dạy cho dân chúng đã kéo theo việc giảng dạy dành riêng cho "những kẻ theo Người làm một với nhóm Mười hai" (4,1-34; x. cc.10-25.34) và làm sao một lô dấu chỉ đã được ban cho các môn đệ khuất mắt dân chúng (4,35-5,43). Sau cuộc thất bại ở Nadarét (6,1-6) trước sự hiện diện của các môn đệ (c.1), chúng ta thấy Chúa Giêsu rảo quanh các làng mạc lân cận để giảng dạy: chính lúc ấy Người sai nhóm Mười hai di truyền giáo (6,7-13). Thành thử các ông giã từ nhau một thời gian, và Marco đã trám lỗ hổng này bằng một ghi chú về ý kiến của Hêrôđê cùng nhiều người khác về Chúa Giêsu (6,14-16) và bằng trình thuật về cái chết của Gioan Tẩy Giả (6,17-29).

Sau này, Marco sẽ trở lại vấn đề lai lịch Chúa Giêsu trong một cuộc đàm đạo giữa Người với môn đệ (8,27-30). Vượt trên các quan niệm "nhân thế", câu trả lời của Phêrô sẽ đánh dấu một bước quyết định đưa đến sự hiểu biết chính xác hơn về Chúa Giêsu: "Ngài là Đức Messia". Lúc này được vượt qua sau một chuỗi hành vi và giáo huấn mà từ khi các "môn đệ" đi truyền giáo về (6,30), Chúa Giêsu đã đặc biệt dành riêng cho họ. Chẳng hạn như trong trình thuật hôm nay: dù Chúa Giêsu giảng dạy và nuôi dân chúng và họ vẫn thụ động, hờ hững một cách lạ lùng, nhưng rõ ràng là theo Marco, dấu chỉ được ban riêng cho các môn đệ; tuy nhiên mấy ông vẫn không hiểu được (6,25) ngay cả sau khi thấy Chúa Giêsu đi trên nước. Rồi sở dĩ Chúa Giêsu tranh luận với các Biệt phái về sự tinh sạch của ăn và về truyền thống (7,1-16), chính là để soi sáng cho môn đệ "khi ở riêng ra" (7,17-23): Rồi cuối tiết nói về bánh (được gọi như vậy vì vai trò quyết định mà hai trình thuật nói về bánh chia cho dân đóng trong đó), các Lời Chúa Giêsu quở trách môn đệ (8,14-21) diễn tả đúng cách thức mà Marco đã làm nổi bật tiết đó lên: nó như là một mặc khải dành cho các môn đệ. Và sở dĩ Marco đặt câu chuyện chữa lành một người mù giữa những lời quở trách và lời tuyên tín của Phêrô, chẳng qua là muốn nói rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có khả năng mở mắt cho họ.

Như thế, mối dây liên kết bản văn chúng ta với việc sai nhóm Mười hai đi truyền giáo và cuộc trở về của họ, không phải chỉ là một phương thức chuyển mạch. Nó diễn tả một cách thức hiểu tất cả bộ ba liên tục này. Hai chủ đề lớn đan nhau trong đó:

- Đức Giêsu cho linh cảm mầu nhiệm về sứ mệnh và bản thân Người.

-Nhưng chính các môn đệ (mà tiết này đồng hóa với nhóm Mười hai) là những kẻ mà Người cố gắng giúp đạt đến sự hiểu biết mầu nhiệm ấy.

Tại sao? Chiếu theo trọng tâm của cuốn sách, ta cần phải móc với "khởi nguyên" của nó (1,1) cái "Tin mừng" phải được loan báo trong khắp thế gian (13,10; 14,9). "Tin mừng" là công việc của Thiên Chúa được thực hiện do Chúa Giêsu Kitô, được tiếp tục giữa chúng ta nhờ sứ mệnh các môn đệ. Do vậy, việc mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu và việc khai tâm cho các "môn đệ" phải đi đôi với nhau.

Dưới ánh sáng của tất cả văn mạch vừa nói, nhiều chi tiết của bản văn chúng ta được nổi bật.

"Các môn đệ tụ họp lại bản Chúa Giêsu... "

Không phải ngẫu nhiên mà nhóm Mười hai, sau chuyến truyền giáo trở về, được mang "tước hiệu môn đệ" và chỉ ở đây trong Marco mà thôi. Tước hiệu này làm cho mối tương quan giữa trình thuật chúng ta và trình thuật sai phái đi truyền giáo thêm chặt chẽ. Chính với tư cách môn đệ, nghĩa là được Chúa Giêsu trao phó cho sứ mệnh và được kêu gọi tiếp tục công việc của Người, mà họ đã tái xuất hiện trên sân khấu. Thành thử trong đoạn tiếp của trình thuật, chớ quên tư tưởng này là sứ mệnh các ông giảng hình ảnh sứ mệnh Chúa Giêsu.

"… và tường trình với Người cả những gì họ đã làm và đã dạy"

Bản tường trình của họ được hệ thống hóa (làm-giảng-dạy) phù hợp với hai phương diện của hoạt động họ theo 6, 12-13 (rao giảng - trừ quỷ - chữa bệnh), là những phương diện đã được phân biệt trong các mệnh lệnh của Chúa Giêsu ở 6,7-11 (quyền trên các thần ô uế, c.7 "nếu họ không nghe các ngươi...", c.11) và trong dự tính đã hướng dẫn việc tuyển chọn họ ở 3,14-15 (rao giảng... trừ quỷ). Thế mà hai phương diện này đã được mô tả trong hoạt động của Chúa Giêsu ngay từ lần Người can thiệp công khai đầu tiên (1,21-27: Người giảng dạy và đuổi một quỷ), đoạn trong cái "ngày" nói nhiều dụ ngôn và làm nhiều dấu chỉ trên biển, trên bờ (4-5) rồi trong chuyến viếng thăm Nadarét (6,16). Thành thử sứ vụ của nhóm Mười hai được đồng hóa đi sứ vụ Chúa Giêsu. Chính sứ vụ Người xác định sứ vụ họ, làm cho sứ vụ họ có ý nghĩa. Công việc của Người phải được tiếp tục trong công việc của họ.

Khi nhắc đến bản tường trình của nhóm Mười hai, Marco nói rõ, và đây là lần duy nhất trong sách ông, là họ đã giảng dạy, thường thường, khi nói về họ, ông sử dụng động từ rao giảng, công bố (kêrussein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong ngữ vựng của ông, có một tiểu dị phân biệt hai tiếng này: công bố đi trước giảng dạy (so sánh 1,14 và 21); giảng dạy bao quát hơn và chắc chắn phải nại đến nhiều hình thức ngôn ngữ khác Mattheu có khuynh hướng đồng hóa hai hạn từ và nói giảng dạy trước công bố: 4,23; 9,35). Tuy nhiên đừng đối chọi chúng như thể đây là hai hoạt động tách rời nhau: được sai đi công bố, nhóm Mười hai đã giảng dạy? Khó mà việc này không đi đôi với việc kia. Dầu sao, cho dù chỉ một lần, chi tiết về việc giảng dạy của nhóm Mười hai vẫn đáng lưu ý trong văn mạch này, văn mạch trong đó việc giảng dạy của Chúa Giêsu cũng được đề cao (6,6b-34). Việc giảng dạy của Người được tiếp tục trong việc giảng dạy của họ. Chúa Giêsu cho họ tham gia vào cái hành vi vốn nằm trong sứ mệnh của Người và biểu lộ uy quyền Người, như Người sẽ dùng họ để quy tụ và nuôi dưỡng đàn chiên Người về sau. Ở đây phải nhận rằng Marco lưu tâm dân sự liên tục sứ mệnh trong Giáo hội và đến tầm quan trọng của việc dạy dỗ trong bao trách nhiệm của Giáo hội (x. Jean Delorme, sđd, tr. 94-95).

"Các ngươi hãy đi riêng ra vào chỗ nào hiu quạnh mà nghỉ ngơi đôi chút"

Dữ kiện này làm cho Marco khác biệt với Mattheu và Luca. Chắc hẳn nó có mục đích giải thích việc đi vào chốn hoang vắng, nơi sẽ xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Nó cũng giúp liên kết cuộc truyền giáo của nhóm Mười hai và sự trở về của họ với việc vị mục tử gặp gỡ đàn chiên bị bỏ rơi. Mối dây này đối với Marco có một tầm quan trọng: vì nhiệm vụ riêng của họ, các môn đệ phải được học nhiều điều từ cuộc gặp gỡ ấy. Nhưng vai trò này của dự tính trong trình thuật có thể được chu toàn do một chủ đề khác lắm chứ, tại sao lại nói đến một dự tính nghỉ ngơi? Nếu bảo rằng là vì sự mệt mỏi sau chuyến truyền giáo thì người ta chỉ nại đến tính cách có vẻ thực của sự kiện chứ không lưu ý đến ý nghĩa của nó trong trình thuật.

Trước tiên phải nêu lên sự nhấn mạnh được đánh dấu bằng việc lặp lại câu "đi riêng ra, vào chỗ hiu quạnh thanh vắng" (cc.31-32). Nơi hiu quạnh thanh vắng là chốn mà truyền thống cho là đã xảy ra phép lạ bánh hóa nhiều; nhưng "riêng ra" (kat'idian) là một nét bút của Marco (x. G. Minette de Tillesse, Le secret messiamque danh l'evangile de Marc, Paris, 1968, tr. 238-242). Ở mọi chỗ khác, tiếng này báo hiệu một hành vi hay một giáo huấn quan trọng, được hoàn tất hay được ban xa cách dân chúng (7,33), dành riêng cho các môn đệ (4,34; 9,2.28; 13,2) (nhiều thành ngữ khác cũng có cùng ý nghĩa trong 4,10; 7,17; 9,28; 10,10). Ở đây thành ngữ nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu mời nhóm Mười hai sống riêng với Người, xa hẳn dân chúng. Trong những điều kiện ấy, sự nghỉ ngơi được đề nghị có vẻ như một cuộc tĩnh tâm thân tình, hứa hẹn nhiều tương giao mật thiết hơn giữa họ với nhau. Như Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ "để họ ở với Người" trước khi sai họ đi rao giảng (3,14), thì khi họ trở về sau chuyến truyền giáo, Người cũng muốn đem họ đi nghỉ ngơi với Người.

Đàng khác, theo Marco, lời mời gọi này ngụ ý rằng Chúa Giêsu ao ước cho các môn đệ Người được có cùng một nhịp điệu hoạt động công khai và sống cô tịch như Người. Thật vậy. Mc đã ghi lại rằng sau ngày đầy thành công giữa quần chúng ở Capharnaum, thì Chúa Giêsu "sáng sớm tinh sương, đã chỗi dậy ra đi đến một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (1,35). Xa hơn, việc càng ngày càng được hoan nghênh khiến Người phải tìm sự yên tĩnh trong những nơi vắng vẻ (1,45). Sau trình thuật chúng ta, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện (6,46; x. 9,2). Trên điểm này cũng vậy, các môn đệ được kêu mời làm như Người, sau những hoạt động truyền giáo công khai. Chính Marco, và chỉ mình ông, ghi lại dụ ngôn hạt giống mà một khi được gieo, cứ tự nảy mầm dù người gieo thức hay ngủ (4,26-29).

Thế nhưng, đối với các môn đệ cũng như đối với Chúa Giêsu, sự nghỉ ngơi có thể thành bất thực hiện. Trước đó, trong 1,45 Marco đã ghi chú rằng việc rút mình vào hoang địa đã không đủ để bảo vệ Chúa Giêsu khỏi làn sóng người khắp nơi tuôn đến. Ở đây, bí mật của dự định không thể giữ kín, và khi có mặt dân chúng đó, thì Chúa Giêsu phải phục vụ họ. Cũng như các môn đệ mà chốc nữa được thúc đẩy hành động giúp Người. Vì đây là lần duy nhất trong Marco mà người ta nói đến sự nghỉ ngơi một cách nghiêm chỉnh (lời kêu mời ở 14,41 có vẻ mỉa mai), nên phải chăng Marco muốn ngụ ý rằng: sự nghỉ ngơi càng cần cho nhà truyền giáo bao nhiêu, thì nó càng khó thực hiện bấy nhiêu? Nếu thế thì ở đây chắc có một lối khôi hài, như trong bản liệt kê những mối lợi mà kẻ từ bỏ trọi sự vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng được ngay ở đời này, Marco đã viết: người ta được lĩnh gấp trăm "cùng với những cấm cách bắt bớ" (10,30). Thời gian truyền giáo không có chỗ cho sự nghỉ ngơi.

Trừ phi tiếng "nghỉ ngơi" nói đến một sự nghỉ ngơi xa hơn! Nếu nó thuộc trình thuật cổ truyền nói về việc hóa bánh ra nhiều, thì hẳn nó vẫn giữ trong ấy sắc thái cánh chung vốn là sắc thái riêng của nó trong nhiều bản văn Kinh Thánh và Do Thái giáo chất chứa niềm hy vọng (Ed 34,14-15; Tv 23,2; 95,7.1).

Thế là trong trình thuật Marco, chẳng có gì chứng tỏ là như vậy cả. Hay phải chăng ông cho rằng ý Chúa Giêsu muốn đem môn đệ Người đi riêng ra để nghỉ ngơi đã hoàn toàn thất bại? Không! Ông muốn nói là dù đám đông đến quấy rầy sự yên tĩnh của nhóm, thì công việc phục vụ đám đông vẫn đặc biệt dành cho nhóm. Một cách nghịch lý, công thức "đi riêng ra" (Kat'idian) tiếp tục ám chỉ việc mặc khải được hàm chứa trong sự ra tay của vị Mục tử thiên sai: đây là một mặc khải riêng tư cho môn đệ? Việc đề nghị nghỉ ngơi chẳng lẽ không có cùng ý nghĩa như thế sao? Đề nghị này không thể thực hiện được như đã tiên liệu, nhưng chiều hướng cánh chung của dấu chỉ là tiên báo việc tập họp và nuôi dưỡng dân Chúa chẳng ngụ ý là sự nghỉ ngơi được hoãn lại, chứ không bị từ chối đó sao?

Đây không phải là bản văn duy nhất mà Marco quy hướng niềm hy vọng của chúng ta về Vương triều Thiên Chúa mà ông đã cho thấy đang trên đường hình thành (1,15; 3,27; 4,26-32; 9,1.14-25). Lời loan báo việc quy tụ bầy chiên bởi vị mục tử phục sinh đi gần với lời loan báo về Vương triều chung cục trong 14,25-27. Đàng khác, sự kiện Chúa Giêsu giảng dạy, trong lúc Người muốn cho môn đệ nghỉ ngơi, có thể đem đối chiếu với các bản văn trong đó Đức Khôn Ngoan hứa cho những ai nghe mình được sự nghỉ ngơi (Hc 6,28; 51,23-27). Các bản văn này là hậu cảnh của một 11,28-29. Xem P.E. Bonnard, La Sagesse en personne annoncée ét venue, Jésus Christ, Paris, 1966, tr. 129-130) và lương thực (Cn 9, 1-6; Hc 24, 19-21; x Is 55,2-3). Một lần nữa, trình thuật của Marco không làm công việc đối chiếu này, nhưng khi nói đến sự nghỉ ngơi, ông có thể tiêu diệt sắc ngụ ý của một chủ đề như thế bên cạnh nhiều chủ đề khác đã từng được liên kết với nó trong cái môi trường văn hóa đã thấy nó phát sinh không?

KẾT LUẬN

Trình thuật của Marco bắt lấy và điều khiển sự chú ý của ta. Nó muốn những độc giả ngoan ngoãn tuân theo lối sư phạm cụ thể của nó. Khó có thể biến nó thành một bản trình bày giáo thuyết hay một bài giáo lý mà không làm nó tê liệt đi. Cũng đừng coi nó như một bức ảnh chớp nhoáng hay chú giải nó theo cái khoái tưởng tượng của mình... Trình bày cho thấy đó là cách nó bắt suy nghĩ. Cái nhìn nó quy hướng về Chúa Giêsu có tính cách chiêm niệm hơn người ta tưởng. Phải tập nhìn, nghĩa là tập nhận lấy ánh sáng mà từ bức tranh lan đến chúng ta.

Chúa Giêsu kích động dân chúng. Nếu Người tìm cách chạy trốn họ, họ càng đến với Người. Một hệ thống tương giao phức tạp đã được thiết lập giữa Người và họ. Người không thể tin cậy cách đơn sơ vào thành công nơi quần chúng. Nhưng Người càng không thể từ chối lời kêu xin phát xuất từ đám đông như từ một đàn chiên bị bỏ rơi. Thế mà hành vi đầu tiên, cần thiết và có ý nghĩa mặc khải, mà nhờ đó Người tương giao với họ, đó là lời nói. Sứ mệnh của Người không thể diễn ra trong thực tế mà không dùng lời nói. Như chiếc bánh bị chia ra và phân phát cho mọi người, thì giáo huấn Người, ban cho đám đông, làm chứng rằng đây là vị mục tử đang đứng trước đàn chiên, và việc Người gắn bó với bầy chiên bơ vơ cho thấy lòng âu yếm nhân từ của Thiên Chúa.

Nhóm Mười hai đứng đó, làm môn đệ tham gia vào công việc của Chúa Giêsu. Công việc này chi phối hết sự nghỉ ngơi có thể gác lại sau, hay chỉ có thể đạt được hoàn toàn ở cuối đường sứ vụ. Họ chưa hiểu Chúa Giêsu là ai, nhưng họ cũng đã bắt đầu được hoạt động. Họ giảng dạy và phải cho dân chúng ăn uống trong nơi thanh vắng. Sau này, một khi đón nhận "bí mật" của Chúa Giêsu qua cuộc khổ nhục tử nạn, bấy giờ ý nghĩa và cách thi hành công việc của họ sẽ được tỏ lộ ra.

"Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô" là hành vi của Thiên Chúa hôm nay giữa con người. Tin mừng đó nhắm đến mọi người nhờ sứ mệnh tông đồ đang được tiếp tục. Qua sứ mệnh này, chính lòng thương xót của vị mục tử, chính lòng bác ái của Chúa Giêsu, như Phaolô sẽ nói, thúc đẩy chúng ta (2Cr 5,14). Khi Mc suy đến sự duy nhất giữa Chúa Giêsu và các môn đệ trong thời khởi nguyên Tin mừng, ông đã đạt tới thực tại sâu xa của Giáo hội, tới trách nhiệm của Giáo hội, tới đòi hỏi xác thực tính mà sứ mệnh đặt ra cho Giáo hội. Nếu Chúa Giêsu đã tốn bao công lao để mở mắt cho nhóm Mười hai, đồng thời hướng dẫn họ vào công việc của họ, thì chúng ta có thể mơ ước một cuộc tập luyện làm tông đồ miễn cho chúng ta sống với Chúa Giêsu, nhìn Người, theo Người, có thể mơ ước được vô cùng bận rộn với những chương trình và lý luận con người của chúng ta không?

Jean Delorme, Assemblées du Seigueur 47, tr. 44-58

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Chúa Giêsu đã không ngần ngại sai các môn đệ đi phổ biến những dấu chỉ Nước Trời là lời mời gọi thống hối và những việc chữa lành bệnh tật, mặc dù các ông chưa đạt tới đức tin chân chính và sung mãn (chỉ có sau lễ Ngũ tuần). Trong những trang Tin mừng kế tiếp, ba lần Chúa Giêsu còn phải lay tỉnh họ vì họ chậm hiểu: "còn những kẻ chai đá... các ngươi còn chưa hiểu ư?" (6,52; 7,18;8,17.21). Chính Phêrô, dù đã biết Chúa Giêsu là ai (8,29), vẫn còn phải tìm hiểu thêm nhiều nữa (8,32). Như vậy không nhất thiết phải chờ cho đến khi thấu hiểu tất cả, học hỏi mọi điều mới khởi sự rao giảng và hành động trong Nước Chúa. Nhiều Kitô hữu có mặc cảm không đủ khả năng rao giảng và làm chứng cho đức tin, nên đổ trách nhiệm này cho các giáo sĩ, tu sĩ và các "chuyên viên", trong khi đó họ bỏ qua bao nhiêu cơ hội tốt: dạy giáo lý cho trẻ em, chia sẻ Tin mừng với các nhóm, chuẩn bị phụng vụ, sửa soạn cho các kẻ sắp lãnh bí tích rửa tội, hôn nhân, xức dầu, thăm viếng các bệnh nhân, an ủi những người sầu khổ, v.v.
2. Chúa Giêsu thích lui vào nơi hoang vắng (1,35; 6,46).

Sau chuyến đi truyền giáo về, các môn đệ sung sướng kể lại những gì đã làm và đã rao giảng (x. Lc 10,17): Chúa Giêsu không khen ngợi cũng chẳng phiền trách, Người chỉ bảo họ tìm nơi hoang vắng, như Người thường làm, để nghỉ ngơi, thẩm định, suy nghĩ về những biến cố mà họ đã sống, đã gặp. Vì trong cuộc sống hoạt động náo nhiệt, họ đã có thể quên kết quả đích thực của kinh nghiệm vừa trải qua là biết chính Chúa Giêsu hơn. Điều này chỉ có thể làm được bằng việc cầu nguyện trong thinh lặng thanh vắng, như Chúa Giêsu đã làm.

3. Dân chúng đang khao khát chân lý. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để đến với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu đã muốn đáp ứng nhu cầu này của họ trước tiên. Nhiều lần trong Tin mừng, ta thấy Chúa Giêsu thay đổi một kế hoạch, bỏ một lộ trình dự tính, để dừng lại bên một đám tang, một người bệnh, một bờ giếng. Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành thì giờ thích thú nghe môn đệ thân yêu kể chuyện truyền giáo, Người đã có thể dẫn các ông đi vào một nơi riêng không ai quấy rầy, để nghỉ ngơi tâm sự với họ. Nhưng không, Người đã muốn, trước hết, đáp ứng nhu cầu sâu xa của dân chúng.

Noel Quesson - Chú Giải

Mc 6,30-34

Các tông đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu

Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Marco gọi các môn đệ là "tông đồ" ("apostoloi", có nghĩa là "những kẻ được sai đi"). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức Giêsu dặn dò các tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin mừng, nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh đạm. Và đoạn Tin mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi.

Vào thời đó, người ta chỉ đi bộ... biết bao là cây số. Vậy trong thời gian đó, khi ở lại một mình, Đức Giêsu đã làm.

Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.

Đó là giờ "báo cáo". Hành động rồi xét lại hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại, người ta quen làm việc theo nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các hiệp hội, nghiệp đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến, dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về "thảo luận", "đối thoại". Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa chúng ta thấy, Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con người, sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin mừng. Đó là mục đích của việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô hữu "trở về" với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?

Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.

Thánh Marco tóm lại tất cả sứ vụ của các tông đồ trong hai bình diện "làm" và "nói". Đó cũng là đặc điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.

Người bảo các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.

Đức Giêsu cũng "nghỉ mát". Đức Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là "stress" có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh, ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.

Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua những kỳ nghỉ nào?

Đây không phải là lần duy nhất Marco cho chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn biết chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2), những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1), những bãi biển Phêmxi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31), đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27).

Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.

Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động "bên ngoài" đến những giai đoạn suy tư "bên trong": Xem-Xét-Làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài". Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là "ngày Sabát", ngày nghỉ ngơi không?

Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng.

Ở đây Đức Giêsu và các môn đệ dường như đang chơi trò "ù tìm" hay "cút bắt" với đám đông nhưng không có cách nào trốn được. Người muốn trốn đám đông nhưng Người cũng phải lo cho đám đông đó. Người muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến nỗi không có thời giờ để ăn, Người sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương trình của Người thế nào?

Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.

Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa. Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển - Đám đông chạy ùa đến với Chúa. Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi chương trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này. Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta "có lẽ không muốn", làm những gì "phải làm", những việc "đang ở đó", "kẻ nào muốn làm môn đệ tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo tôi" (Mc 8,34), "kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống" (Mc 8,35). Thua mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; thua mất vì tình yêu.

Người chạnh lòng thương.

Cảm xúc này đã biểu lộ trên gương mặt, trong cử chỉ của đôi tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu thế nào?

Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thời đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn "trắc ẩn" như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế nào?

Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.

Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người chăn! Thật là hỗn độn! Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dắt đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13). Môsê lúc chết đã lo lắng cho dân Israel "như chiên không có chủ chăn" (Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh vịnh 22: "Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ". Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình ảnh này: "Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác" (Mc 14,27). Người xác quyết mình "được sai đến với những con chiên lạc" (Lc 19,10-15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).

Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là Thiên Chúa - Mục tử của dân Israel.

"Những con chiên không người chăn". Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng. Người ta đang tìm Đấng "Chúa hứa ban". Nhưng thường thì sau một thời gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.

Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên dân chúng một chính sách nặng nề.

"Chiên không có chủ chăn": Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của đồng cỏ xanh tươi?

Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám đông mất phương hướng đó, là "phục vụ Lời Chúa". Một lần nữa Marco không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.

Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy nói nhiều hơn…

Giáo Phận Nha Trang - Chú Giải

"Họ như đàn chiên không người chăn"

BÀI TIN MỪNG: Mc 6,30-34

I. Ý CHÍNH:

Lòng yêu thương nhân lành của Chúa Giêsu - vị Tông đồ kiểu mẫu - đã được biểu lộ qua cử chỉ săn đón các tông đồ đi truyền giáo trở về và qua lòng trắc ẩn xót thương đối với đám dân chúng theo Người.

II. SUY NIỆM:

1/ "Khi ấy các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu"

Sau thời gian được sai đi làm công tác truyền giáo (Mc 6,7-13) nay các tông đồ trở về. Thầy trò bên nhau, tay bắt mặt mừng.

* "Và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy":

Những công việc các ông đã làm: trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật; những việc các ông đã giảng dạy là rao giảng sự sám hối (Mc 6,7-11).

Đây cũng chính là hai công việc đã được mô tả trong hoạt động của Chúa Giêsu ngay từ lần Người can thiệp công khai đầu tiên (Mc 1,21-27): Người giảng dạy và đuổi quỷ. Vì vậy, ở đây cho ta thấy sứ vụ của các tông đồ được đồng hóa với sứ vụ của Chúa Giêsu, nghĩa là công việc của Chúa Giêsu phải được tiếp tục trong công việc của các tông đồ. Nhờ thế tất cả mới hiểu tại sao các tông đồ "thuật lại với Người mọi việc".

3/ "Người liền bảo các ông: các con hãy vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút".

Điều này nhấn mạnh rằng Chúa muốn bảo các tông đồ sống riêng với Người, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn với Người và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Chúa Giêsu chọn các tông đồ "để họ ở với ngài" Trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14), và ngay sau khi đã truyền giáo về, Người cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Người.

Đàng khác điều này cũng ngụ ý rằng Chúa Giêsu ao ước cho các tông đồ được có cùng một nhịp điệu hoạt động công khai và sống cô tịnh như Người (Lc 1,35,45; 6,46; 9,2).

Ngoài ra, ở đây cũng thấy Chúa Giêsu không đề cập tới công việc của các tông đồ, nhưng Người lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông. "Các con hãy nghỉ ngơi một chút" chứng tỏ rằng Người săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.

4/ "Vì lúc ấy kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi...":

Sở dĩ dân chúng đi lại tấp nập là vì sắp đến lễ Vượt qua (Ga 6,4-10) nên dân chúng đi lại đông hơn.

Chuyến công tác truyền giáo của các tông đồ xem ra có kết quả tốt, nên dân chúng tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe Người.

Chúa Giêsu có sức thu hút dân chúng đặc biệt (Mc 1,23) nên họ từ khắp nơi tuôn đến, đông đến nỗi ngăn trở Người và các tông đồ dùng bữa (Mc 2,2-13; 3,7-9; 5,21-24; 6,54-56; 9,15; 10,1-4b). Vì vậy ở đây cho chúng ta thấy hiệu quả đích thực của việc tông đồ là làm cho người ta thao thức đến với Chúa và gặp được Người.

5/ "Vậy các ngài xuống thuyền chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh":

Ý định của Chúa Giêsu là muốn có bầu khí yên tĩnh, tránh xa sự ồn ào... để thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau nhất là để Thầy có thể nói dễ dàng với các tông đồ. Vì vậy các ngài mới chèo thuyền đến một nơi vắng vẻ. Một nơi tách xa khỏi đám đông dân chúng đang ồn ào.

6/ "Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý":

Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng nên đoán trước được thuyền của các ngài định đi đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng độ 10km, dân chúng không quản ngại quốc bộ, nên họ đến trước Chúa Giêsu. Ở đây cho ta thấy: đã thích, đã muốn, đã ưng ý thì ở đâu người ta cũng tìm đến được.

7/ "Lúc ra khỏi thuyền Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương...":

+ Thấy dân chúng thật đông: dù đã tránh đi nơi vắng vẻ, nhưng dân chúng vẫn kéo đến đông, điều này chứng tỏ dân chúng rất tha thiết với Chúa, và chính sự tha thiết này đã đánh động lòng trắc ẩn của Chúa.

+ Thì động lòng thương: gợi lên một tâm tình sâu xa bắt nguồn từ đáy lòng và diễn tả ra bằng hành vi bên ngoài.

Ở đây diễn tả lòng thương xót của Chúa Giêsu đối với đám đông dân chún. Tâm tình thương xót này Chúa Giêsu thường tỏ lộ trong khi Người đi rao giảng ơn cứu độ của Người. Vì lòng thương Người đã:

- Chữa lành hai người mù (Mt 20,34)

- Trả lại đứa con cho bà goá Naim (Lc 7,13)

- Trả lại sức khỏe cho đứa con của một người cha nại đến lòng Người thương xót (Mc 9,22).

Chính lòng thương xót này của Chúa Giêsu là dấu chỉ của ơn cứu rỗi tiên hứa mà người ta đã chờ đợi từ lòng nhân ái của Thiên Chúa (Lc 1,78; Ga 5,11).

+ Vì họ như đàn chiên không người chăn: hình ảnh này đã được nói trong Cựu ước:

* Ds 27,17: sự đáng thương của dân Chúa thiếu thủ lãnh.

* 1V 22,17; 2Sbn 18,16: dân bị phó mặc cho quân thù.

* Dcr 10,2-3: dân bị vua chúa bỏ rơi.

Trong Cựu ước những người có bổn phận phải dạy dỗ dân là những vị thuộc hàng tư tế, những vị tiến sĩ luật, song các ông đã biếng nhác sao lãng bổn phận vì phần đông chỉ lo tìm tư lợi.

Hình này gợi lên nhu cầu cấp bách của vị tông đồ truyền giáo.

+ Và Người dạy dỗ họ nhiều điều: ở đây thánh Marco chỉ nói trống "Người dậy dỗ nhiều điều" mà không xác định Người đã dạy gì. Nhưng thánh Luca có ghi rõ (Lc 9,10-11): Người tiếp đón họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy "nhiều điều này" đã chứng thực lòng thương xót của Thiên Chúa.

III. ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin mừng:

Qua bài Tin mừng hôm nay, phụng vụ muốn nêu cao lòng thương xót của Thiên Chúa để, một đàng cho chúng ta tín nhiệm vào Ngài, đàng khác để nêu gương cho những người sống đời tông đồ cũng phải thể hiện lòng thương xót qua công việc tông đồ của mình.

B/ Áp dụng thực hành:

1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:

+ Chăm sóc cho các tông đồ: lo đến sức khỏe tinh thần và thể xác cho các tông đồ trước khi nghĩ đến các thành quả của việc tông đồ.

+ Động lòng trắc ẩn đối với dân chúng: nhận ra nhu cầu "đói" của ăn nơi dân chúng, Chúa Giêsu đã từ bỏ ý riêng "đi ở riêng với các tông đồ" để lo giảng dạy cho dân chúng. Trong công việc tông đồ của chúng ta cũng cần phải biết hy sinh ý riêng, việc riêng để lo cho việc chung, lo cho phần rỗi các linh hồn.

+ Khi truyền cho các tông đồ vào nơi vắng vẻ

TAGS:
CHIA SẺ BÀI VIẾT