Header

Chú Giải Tin Mừng Thứ Tư Tuần II Mùa Thường Niên | Mc 3,1-6 | Giáo Phận Phú Cường

avatarby Noel Quesson
21/01/2025
1.1K
Trước tiên, trình thuật kể lại người ta đã cố gắng trang bị cho cậu bé Đavít áo giáp của vua Saolê như thế nào. Nhưng cậu không thể bước đi được, vì nó quá lớn đối với cậu. Khi người ta trao cho cậu "những phương tiện nhân loại" gây sức mạnh để thắng tên khổng lồ cách thuận lợi, thì Đavít không thể tiến bước được nữa...

CHÚ GIẢI TIN MỪNG
THỨ TƯ TUẦN II MÙA THƯỜNG NIÊN
TIN MỪNG: Mc 3,1-6

Noel Quesson - Chú Giải

Bài đọc I: NĂM LẺ: Dt 7,1-3.15-17

Con là thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàng Melkisêđê.

Chúa Giêsu không thuộc chi họ Lê vi nên không phải là tư tế theo luật Do Thái. Người chỉ là một giáo dân. Điều đó sẽ được nhấn mạnh sau này (Dt. 7,14). Do đó chức tư tế của Người thuộc về một trật tự khác và tác giả sắp tìm một phác họa về một trật tự khác và tác giả sắp tìm một phác họa về Chúa Kitô, trước cả luật Môsê: Đây là Melkisêđê, thời Abraham (St 14,17-20 ; Tv 1,10).

Thật thú vị khi ghi nhận điều mà sự so sánh này gợi lên:

Melkisêđê là “vua và tư tế”… như Chúa Giêsu sẽ khai mở Nước Chúa.

Melkisêđê là một tư tế ngoại giáo... có nghĩa là trước khi có giao ước riêng với dân Do Thái nơi Abraham và trước khi canh tân chức tư tế Lêvi, đã có (và vẫn còn có) những người đạo đức thực sự thờ phụng Chúa... Và Chúa Giêsu sẽ tìm gặp lại chức tư tế phổ quát này.

Melkisêđê có nghĩa là “vua cộng chính" và thành của ngài là "Salem" có nghĩa là “an bình".

Sau cùng Melkisêđê không có gia phả, đây như là một thực thể từ trời rơi xuống, và như thế, loan báo thiên tính của Chúa Ki tô. Những chứng cớ kiểu rabbi này xem ra rắc rối cho chúng ta. Nhưng đừng quên rằng, chúng được gửi tới những người Do Thái quen với kiểu lập luận của Kinh thánh này, và chúng được nói bằng những hình ảnh cụ thể mà chúng ta nói là dưới hình thức những ý tưởng trừu tượng.

Melkisêđê này là vua Salem tư tế của Thiên Chúa tối cao, ông đã đi đến Abraham.

Như thế, chương trình của Thiên Chúa có trước việc thành lập dân Israel. Ta nghĩ đến hàng tỷ những người sống trước Chúa Giêsu, và vì thế , không hề có cơ hội gặp Người... và những kẻ phụng sự Người theo cách của họ, khi giữ những tập tục tôn giáo riêng của họ. Tác giả của bản văn quả quyết với chúng ta rằng, Chúa Kitô "theo phẩm hàm đó”, “theo phẩm hàm Melkisêđê”.

Qua nhiều tiếp xúc loại này, Kinh thánh không ngừng nhắc nhở chúng ta rằng ơn cứu rỗi của Chúa Kitô là phổ quát, đạt tới mọi người, mọi giống nòi và mọi tôn giáo. Ơn gọi thừa sai của Hội Thánh là làm cho có đông đảo hết sức có thể những người “nhận biết" rõ ràng Đấng cứu chuộc họ, và sống cách ý thức hơn điều đó, sao cho đến lượt mình, họ trở nên những người cứu anh em mình.

Giải nghĩa tên ông, trước tiên thấy ông mang tên là vua công chính, rồi ông còn là vua Salem nghĩa là vua hòa bình.

Tôi suy về hai danh hiệu này của Chúa Giêsu vua công chính vua hòa bình...

Ông không cha không mẹ, không gia phả, không ngày sinh không ngày tử, nhưng ông được so sánh với Con Thiên Chúa.

Thực vậy, Melkisêđê là một khuôn mặt bí ẩn mầu nhiệm, như một vẩn thạch người ta không biết từ đâu đến và đi đâu Và tác giả thấy ở đó nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu. Phải, Con Thiên Chúa không có khởi đầu chẳng có kết thúc. Người vĩnh cửu như Thiên Chúa.. sự sinh hạ của Người mất hút trong bóng tối thời gian và vượt ra ngoài thời gian, sự sống của Người kéo dài bất tận.

Ông làm tư tế muôn đời.

Không do kế thừa, thông do nguồn gốc nhân loại, chức tư tế của Người bền chặt vĩnh cửu. Nó đủ để phủ kín mọi thời Các tư tế khác từ nay phải tùy thuộc Người và thông phần với Người.

Ông được thiết lập làm tư tế, không phải chiều theo quyền năng của sự sống bất diệt.

Chính nơi nhân vị Người tồn tại sứ mệnh trung gian của Người.

Bài đọc II: NĂM CHẴN: 1 Sm 17,32-33.37-40

Những trình thuật về thời thơ trẻ của Đavít khá phức tạp do những truyền thống khác nhau xếp đặt lại cách vụng về. Được “xức dầu” phong vương cách bí mật, trong trang trại của cha mình là Giêsê, Đavít hình như đã tình nguyện phục vụ Saolê. một ông vua “bị Thiên Chúa truất phế”, nhưng chưa hoàn toàn thoái vị. Trong một lối hành văn rất bình dân, chúng ta sẽ chứng kiến một số chiến công của Đavít, như thủ lãnh đoàn, trong cuộc giao chiến chống lại quân Philitinh. Toàn thể trình thuật được xây dựng nhằm làm nổi bật những đức tính phi thường của Đavít, cũng như sự nâng đỡ đặc biệt của Thiên Chúa phù giúp cậu.

Cậu bé Đavít, đối diện với tên Gôliát khổng lồ.

Đây thật sự là biểu tượng của sự yếu đuối trước sức mạnh. Giáo hội trường mang những vẻ bề ngoài của cậu bé Đa vít.

Chân lý cũng thường có những vẻ bề ngoài của cậu bé Đavít.

Nhưng sức mạnh của sự dữ thật là khổng lồ. Đức tin là một ngọn lửa nhỏ bé mỏng manh hứng chịu những luồng gió mãnh liệt của lịch sử.

Trong những cuộc giao chiến nội tâm hay bên ngoài, chúng ta thường có cảm tưởng như mình đứng trước các sự việc vượt quá khả năng mình, phải đương đầu với những khó khăn vượt mức. Những cậu bé Đavít đứng trước tên khổng lồ mạnh hơn cậu”.

Tôi gợi lên các tình huống Hôm Nay.

Đavít từ chối áo giáp của Saolê.

Trước tiên, trình thuật kể lại người ta đã cố gắng trang bị cho cậu bé Đavít áo giáp của vua Saolê như thế nào. Nhưng cậu không thể bước đi được, vì nó quá lớn đối với cậu. Khi người ta trao cho cậu "những phương tiện nhân loại" gây sức mạnh để thắng tên khổng lồ cách thuận lợi, thì Đavít không thể tiến bước được nữa.

Phần chúng ta lại khác, chúng ta thương ước muốn có được thứ “áo giáp của Saolê", một sự an toàn nhân loại, những sức mạnh cả con người.

Phải có nhiều can đảm và đức tin để xin Thiên Chúa “trở nên sức mạnh duy nhất cho ta”... và cởi bỏ các binh giáp của ta.

Còn mi, mi cầm gươm, giáo, lao mà đến với ta, thì ta đến với mi nhân danh Chúa các đạo binh.

Đó là câu chủ chốt của trình thuật.

Câu chuyện này đi ngược lại tất cả các quan niệm nhân loại đã thu nhận và duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, về tương quan lực lượng, về ý nghĩa quyền lực, uy thế sức mạnh, chiến đấu.

Cần gợi lại đoạn văn của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô: Thiên chúa đã chọn những gì là hèn mạt, những gì là yếu kém, là không đáng kể đối với thế gian, để hạ nhục và hủy diệt những gì là hùng mạnh. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa trở nên điên rồ trước sự khôn ngoan của loài người…

Đó là điều gây sững sờ khiến ta không muốn tin vào đó nữa. Tuy thế, sự yếu kém tủa cậu bé Đavít mới chỉ là hình ảnh mờ nhạt của sự yếu đuối Đức Giêsu trên thập giá không gươm, không giáo, không lao, không có một quyền lực nhận loại nào!

Đối mặt với một cuộc chiến khốc liệt, Đức Giêsu xuất hiện hoàn toàn không vũ trang, tay không, trần trụi, không một khí giới vào khác ngoài tình yêu của Người.

Ôi lạy Chúa, mạc khải đó làm con sợ hãi biết bao. Tuy nhiên. Đó không phải là giải pháp duy nhất sao. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin vào cuộc chiến thắng của Chúa: "Can đảm lên. Thầy đã thắng thế gian và tên Thủ lãnh của tối tăm không làm gì được Thầy" (Ga 16,11-33).

Nhờ cầu nguyện, tôi áp dụng Lời Chúa trên đây vào mọi tình trạng yếu kém của tôi: tội lỗi, những giới hạn, khó khăn của tôi... những yếu kém của Giáo hội . Tôi tiến bước nhân danh Chúa các đạo binh”.

Lạy Chúa, xin ở bên con trong cuộc giao chiến cuối cùng, cuộc chiến chống lại thần chết. Và ngay từ bây giờ, Lạy Chúa, xin ở với con. luôn.

BÀI TIN MỪNG: Mc 3,1-6.

Một ngày Sabát, Chúa Giêsu lại vào một hội đường, và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabát không, để tố cáo Người.

Trước hết, cần tưởng tượng lại cảnh trên. Nó thật là cụ thể sống động.

Đó là Ngày được dâng hiến cho Chúa (ngày nay ta gọi là Chúa Nhật). Chúa Giêsu đi tới Hội đường để tham dự giờ kinh nguyện (ngày nay là tham dự Thánh lễ). Cử tọa đang ở đó, vây quanh Chúa Giêsu. Những địch thủ quen thuộc cũng có mặt trong số những người tham dự: họ ở đó, thái độ căng thẳng, rình chờ từng bước đi sải sảy của người rabbi trẻ tuổi: một lời nói nghịch với truyền thống biệt phái, một cử điệu khác thường bị Luật cấm đoán. Bầu khí dò xét nhau: họ muốn tố cáo…. họ rình mò.

Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây”. Rồi Người bảo họ: Trong ngày Sabát được làm sự lành hay làm sự dữ?”

 Đối với Chúa, không phải Lề luật, ngay cả Luật ngày Sabát là trên hết, mà chính là người bại giết đáng thương này mới cần ưu tiên. Lề luật được tạo lập vì lợi ích của con người. Không khi nào luật vì luật, quy chế vì quy chế. Trong bậc sống của tôi, thái độ tuân phục lề luật của tôi thế nào? Lạy Chúa, xin giúp con biết khám phá ra lý do sâu xa của lề luật, để con tuần hành từ trong tâm hồn, cách tự do... chớ không phải cách miễn cưỡng, máy móc hay hình thức bề ngoài .

Được cứu sống… hay là giết chết?

Vâng, Thiên Chúa luôn ủng hộ sự sống, ơn cứu độ, hạnh phúc.

Chúa Giêsu xác quyết quyền ưu tiên cho “lương tâm" con người trên luật lệ.

Thực tế, Người không hủy bỏ ngày Sabát: trong sâu xa, Người ngầm báo trước ý nghĩa của ngày đó... đó phải là ngày của “tự do”, ngày của "niềm vui”, ngày của "sự sống” ngày của "lễ hội "... ngày của "Thiên Chúa "! Ngày để con người làm sự lành "cứu sống"!

Nhưng, bề ngoài, Chúa Giêsu, như xô xát hoàn toàn với quan niệm hẹp hòi mà, những người đặc trách về Luật tạo ra.

Quan niệm về ngày Chúa Nhật của tôi như thế nào?

Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá.

Họ không muốn trả lời câu hỏi của Chúa. Họ quá cậy mình. Chỉ họ mới nắm chân lý. Họ không thèm bắt chuyện. Họ thinh lặng. Họ cũng không muốn tranh luận. Có vẻ họ bị bó buộc phải tố giác thôi.

Lạy Chúa con chiêm ngưỡng khuôn mặt Chúa "đầy tức giận!”. Chúa không sợ phải đụng độ với những kẻ đồng thời... ,vì không làm theo ý kiến của những nhà lãnh đạo.

Nhưng, ôi lạy Chúa, sức mạnh của Chúa không gây chết chóc, nhưng để “cứu sống”, Chúa không chấp nhận sự dữ dưới mọi hình thức.

Và để thực hiện điều đó, Chúa trở thành một con người đam mê! Chúa có thể nổi giận.

Khi người ta không muốn thay đổi quan niệm, khi chúng con tự đóng khung trong những xét đoán quy luật của mình, khi chúng con từ chối đáp lại những câu hỏi Chúa đặt ra, khi lòng dạ chúng con chai đá... thì lạy Chúa, những thái độ đó mới khiến Chúa nổi giận.

Lạy Chúa, xin cứu chữa chúng con khỏi óc bè phái, khỏi tinh thần hẹp hòi!

Lập tức những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

Tin Mừng của Marcô mang tính bi thảm. Ngay từ đầu, người ta đã thoáng nhận ra thập giá. Trong suốt ba năm, sẽ là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng.

Giáo phận Nha Trang - Chú Giải

Chúa chữa người bại tay.

HOÀN CẢNH:

Đây là cuộc tranh luận thứ năm giữa Đức Giê-su và các đối phương.

Ý CHÍNH:

Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đề cao những việc bác ái từ thiện là những việc phụng sự Thiên Chúa trong ngày sa-bát.

TÌM HIỂU:

1 “Đức Giê-su lại vào hội đường …”:

Câu mở đầu này giới thiệu nơi chốn và hoàn cảnh của câu chuyện.

2 “Họ rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy…”:

Thâm ý của phe chống đối là tìm đủ cách để bắt lỗi Chúa. Ở đây họ rình xem Chúa có chữa người bại tay trong ngày sa-bát không, để bắt lỗi Chúa vi phạm luật ngày sa-bát, vì có luật cấm chữa bệnh trong ngày sa-bát.

3 “Đức Giê-su bảo người bại tay …“:

Nhận thấy ác ý và quan niệm sai lầm của họ về việc giữ luật ngày sa-bát, Đức Giê-su dạy họ bài học về ý nghĩa của việc giữ luật ngày sa-bát:

- Chúa dạy bằng phương tiện công khai: truyền cho bệnh nhân đứng dậy và đứng ra giữa hội đường cho mọi người thấy rõ.

- Chúa dạy bằng lời giáo huấn để gây ý thức (3,4).

- Chúa dạy bằng hành động cụ thể, bằng cách truyền cho người bại tay giơ tay ra và người ấy giơ ra (3,5).

Qua phép lạ này Chúa nêu rõ ngày sa-bát là ngày làm điều lành và tránh điều dữ, cứu mạng người chứ không giết chết.

NHẬN THỨC VÀ ÁP DỤNG:

1. Nhìn vào Chúa Giê-su:

a) Xem việc Chúa làm:

- Chúa Giê-su gắn bó với hội đường vì Người coi đó như là nơi Người thi hành sứ vụ cứu thế của Người.

Noi gương Chúa, chúng ta tôn trọng và quý mến nhà thờ là nơi gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa; siêng năng tham dự các giờ phụng vụ, các giờ đạo đức…

- Chúa Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ : Đây là thái độ tỏ ra cho thấy sự xấu xa trầm trọng của tính cố chấp nơi họ, vì không muốn đón nghe lời dạy của Chúa.

Được tiếp xúc với Lời Chúa mà không tìm hiểu và thực hành thì đó là sự cố chấp và cứng lòng khiến Chúa buồn sầu và giận dữ với ta.

b) Nghe lời Chúa nói:

- Chúa truyền cho người bại tay chỗi dậy và chữa bệnh cho anh; nghe lời Chúa truyền và thi hành, sẽ được đón nhận ơn cứu độ của Chúa.

- Chúa truyền lệnh cho người bại tay giơ tay ra, vì anh đã vâng lời nên tay anh đã được trở lại bình thường.

Tin vào lời Chúa dạy và thi hành theo điều mình tin sẽ được hiệu quả ơn cứu độ.

2. Nhìn vào người bại tay:

- Người bại tay: là đối tượng tình thương của Chúa, vì thế Chúa đã chữa lành cho anh.

Khi chúng ta nhận thức về sự yếu đuối của mình trong tinh thần khiêm nhường và biết vâng lời Chúa, thì chúng ta sẽ đón nhận tình thương cứu độ của Chúa : ơn tha thứ, ơn sức mạnh, ơn khôn ngoan, ơn can đảm…

- Người bại tay giơ tay ra theo lệnh truyền của Chúa, và tay liền trở lại bình thường.

Càng tin tưởng vào Chúa, càng dễ tuân phục ý Chúa, và tuân phục ý Chúa là cách tỏ lòng mến Chúa chân thật, vì “ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”

3. Nhận thức:

Qua việc chữa người bại tay trong ngày sa-bát, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta trân trọng ngày Chúa Nhật là ngày của Thiên Chúa, ngày đem lại niềm vui và sự sống. Vì thế ngày Chúa Nhật cũng là ngày làm việc từ thiện bác ái, ngày cứu giúp và làm sự lành cho tha nhân.

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

Địa chỉ: Số 06, Tôn Đức Thắng, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

Copyright © CHỦNG SINH KHÓA 10

CHIA SẺ BÀI VIẾT