Header

Bộ Giáo Luật - The Code of Canon Law: QUYỂN VII: TỐ TỤNG

avatarby
27/02/2016
2.3K
Ðiều 1402: Tất cả các tòa án của Giáo Hội được điều hành theo các điều luật sau đây, đừng kể những quy tắc của các tòa án thuộc Tòa Thánh...
QUYỂN VII: TỐ TỤNG
 
PHẦN I: SỰ PHÁN XỬ NÓI CHUNG
 
Ðiều 1400: (1) Ðối tượng của sự phán xử là:
 
1. truy tố hay yêu sách những quyền lợi thể nhân hay pháp nhân, hay tuyên bố những sự kiện pháp lý;
 
2. tuyên kết hay tuyên bố hình phạt dành cho các tội phạm.
 
(2) Tuy nhiên, những tranh tụng phát sinh từ một hành vi hành chánh chỉ có thể được trình lên Thượng Cấp hay Tòa Án hành chánh.
 
Ðiều 1401: Giáo Hội có quyền riêng biệt và độc hữu để phân xử:
 
1. những vụ kiện liên quan đến những việc thiêng liêng và gắn liền với những việc thiêng liêng;
 
2. sự vi phạm luật Giáo Hội, và tất cả những gì có tính cách tội lỗi luân lý và tuyên kết các hình phạt của Giáo Hội.
 
Ðiều 1402: Tất cả các tòa án của Giáo Hội được điều hành theo các điều luật sau đây, đừng kể những quy tắc của các tòa án thuộc Tòa Thánh.
 
Ðiều 1403: (1) Những vụ phong thánh các Tôi Tớ của Chúa sẽ được điều hành theo luật riêng của Tòa Thánh.
 
(2) Ngoài ra, đối với các vụ ấy, những quy định của bộ luật này cũng được áp dụng mỗi khi luật riêng quy chiếu về luật phổ quát, hay khi nói đến các quy tắc, mà tự bản chất, có liên quan đến chính các vụ ấy.
 
THIÊN 1: TÒA ÁN CÓ THẨM QUYỀN
 
Ðiều 1404: Không ai có quyền xét xử Ðức Thánh Cha.
 
Ðiều 1405: (1) Trong những vụ kiện nói ở điều 1401, chỉ một mình Ðức Thánh Cha có quyền xét xử:
 
1. các nguyên thủ quốc gia;
 
2. các Hồng Y;
 
3. các Phái Viên Tòa Thánh và, trong những vụ án hình sự, các Giám Mục;
 
4. những vụ khác mà chính Ngài muốn dành riêng cho mình quyền phán xử.
 
(2) Không thẩm phán nào được quyền duyệt xét một hành vi hay văn kiện đã được chính Ðức Thánh Cha phê chuẩn trong một hình thức đặc biệt, nếu trước đó, không nhận được sự ủy nhiệm của Ngài.
 
(3) Ðược dành cho Tòa Thượng Thẩm Roma quyền xét xử:
 
1. các Giám Mục trong những vụ hộ sự, đừng kể quy định của điều 1419, triệt 2;
 
2. Viện Phụ Tổng Quyền, hay Viện Phụ Hội Trưởng Chi Dòng, và các Bề Trên Tổng Quyền của các dòng tu thuộc luật giáo hoàng;
 
3. các giáo phận và những thể nhân hay pháp nhân của Giáo Hội mà không có Thượng Cấp nào khác ở dưới Ðức Thánh Cha.
 
Ðiều 1406: (1) Nếu quy định ở điều 1404 bị vi phạm, thì các án từ và quyết định đều vô hiệu.
 
(2) Trong những vụ kiện nói ở điều 1405, sự vô thẩm quyền của các thẩm phán khác có tính cách tuyệt đối.
 
Ðiều 1407: (1) Không ai có thể bị kiện trước tòa sơ cấp, nếu không phải là trước mặt thẩm quyền dựa vào một trong những danh nghĩa được xác định ở các điều 1408-1414.
 
(2) Sự vô thẩm quyền của thẩm phán gọi là tương đối, khi thẩm phán không có một danh nghĩa nào được xác định ở các điều khoản vừa nói.
 
(3) Nguyên đơn phải theo tòa án của bị đơn. Nếu bị đơn có nhiều tòa án có thẩm quyền, nguyên đơn được phép lựa chọn tòa án.
 
Ðiều 1408: Bất cứ ai cũng có thể bị kiện ra trước tòa án ở nơi nào mà họ có cư sở hay bán cư sở.
 
Ðiều 1409: (1) Tòa án dành cho người vô gia cư là tòa án nơi người ấy hiện đang cư ngụ.
 
(2) Người mà không ai biết được cư sở hay bán cư sở hoặc nơi đang trú ngụ, có thể bị kiện trước tòa án của nguyên đơn, miễn là không có tòa án hợp lệ nào khác được chỉ định.
 
Ðiều 1410: Vì lý do tọa lạc của đồ vật, đương sự có thể bị kiện trước tòa án tại nơi có đồ vật tương tranh, khi tố quyền nhằm trực tiếp sự vật ấy, hay vụ kiện nhằm truất đoạt sự vật.
 
Ðiều 1411: (1) Vì lý do khế ước, đương sự có thể bị kiện trước tòa án tại nơi lập khế ước hay nơi khế ước phải được thi hành, trừ khi hai bên đồng ý chọn một tòa án khác.
 
(2) Nếu vụ kiện liên quan đến những nghĩa vụ phát xuất từ một danh nghĩa khác, đương sự có thể bị kiện trước tòa nơi phát sinh nghĩa vụ hay nơi phải chu toàn nghĩa vụ.
 
Ðiều 1412: Trong những vụ án hình sự, bị cáo, mặc dù khuyết tịch, có thể bị kiện ra trước tòa án nơi xảy ra tội phạm.
 
Ðiều 1413: Ðương sự có thể bị kiện:
 
1. trong những vụ kiện liên can đến sự quản trị, trước tòa án nơi chấp hành việc quản trị ấy;
 
2. trong những vụ kiện về sự thừa kế hay các di sản đạo đức, trước tòa án nơi có cư sở hay bán cư sở hay trú sở cuối cùng của người có liên can đến sự thừa kế hay các vật di sản đạo đức, theo quy tắc nói ở các điều 1408-1409. Tuy nhiên, nếu chỉ là việc chấp hành di sản, thì phải theo các quy tắc thông thường về thẩm quyền.
 
Ðiều 1414: Vì lý do liên hệ, các vụ kiện liên hệ với nhau phải được xét xử do chính một tòa án và trong chính một việc tố tụng, trừ khi có sự ngăn cấm do một quy định của luật.
 
Ðiều 1415: Vì lý do ưu tiên, khi hai hay nhiều tòa án có đồng thẩm quyền, thì tòa án nào triệu đương sự ra tòa trước tiên cách hợp lệ, tòa ấy có quyền xét xử vụ kiện.
 
Ðiều 1416: Những vụ tranh chấp thẩm quyền giữa hai tòa án cùng lệ thuộc một tòa kháng cáo, sẽ do tòa án này giải quyết; nếu không lệ thuộc cùng một tòa kháng cáo, sẽ do tòa án Tối Cao Tòa Thánh giải quyết.
 
THIÊN 2: CÁC CẤP VÀ CÁC LOẠI KHÁC NHAU CỦA TÒA ÁN
 
Ðiều 1417: (1) Vì lý do quyền tối thượng của Ðức Thánh Cha, bất cứ tín hữu nào cũng có quyền kháng tố hay khởi tố một vụ hộ sự hoặc hình sự của mình lên Tòa Thánh xét, ở bất cứ cấp bực phán xử và ở bất cứ giai đoạn nào của việc tố tụng.
 
(2) Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp kháng cáo, sự thượng cầu lên Tòa Thánh không đình chỉ quyền hành sử quyền tài phán của thẩm phán đã bắt đầu xét vụ án. Vì thế, thẩm phán này có thể tiếp tục xử cho đến án chung quyết, trừ khi Tòa Thánh thông tri muốn dành vụ kiện cho mình.
 
Ðiều 1418: Bất cứ tòa án nào cũng có quyền yêu cầu một tòa án khác trợ giúp thẩm vấn một vụ kiện hay tống đạt các án từ.
 
Chương I: Tòa Án Sơ Cấp
 
Mục 1: Thẩm Phán
 
Ðiều 1419: (1) Trong mỗi giáo phận, và cho tất cả các vụ kiện không bị luật pháp minh thị loại trừ, thẩm phán sơ cấp là Giám Mục giáo phận. Ngài có thể tự mình hay nhờ người khác hành sử quyền tài phán, dựa theo các điều khoản sau đây.
 
(2) Nhưng nếu vụ kiện liên quan đến các quyền lợi hay tài sản của một pháp nhân do Giám Mục làm đại diện, thì tòa kháng cáo sẽ phán xử ở bậc sơ cấp.
 
Ðiều 1420: (1) Tất cả các Giám Mục giáo phận phải đặt một Ðại Diện tư pháp hay Án Sát với quyền phán xử thông thường. Người ấy phải khác biệt với Tổng Ðại Diện, trừ khi giáo phận nhỏ hay số vụ kiện ít ỏi khuyên làm cách khác.
 
(2) Ðại Diện tư pháp họp thành một tòa án duy nhất với Giám Mục, nhưng không được phán xử những vụ án mà Giám Mục dành riêng cho mình.
 
(3) Có thể cấp cho Ðại Diện tư pháp các cộng sự viên mang danh là phụ tá Ðại Diện tư pháp hay phó Án Sát.
 
(4) Ðại Diện tư pháp cũng như các phụ tá phải là những linh mục có thanh danh, có bằng tiến sĩ hay ít là cử nhân giáo luật, và không dưới ba mươi tuổi.
 
(5) Trong thời gian Tòa Giám Mục khuyết vị, họ vẫn tiếp tục chức vụ, và Giám Quản giáo phận không thể bãi chức họ. Tuy nhiên, khi tân Giám Mục nhận chức, họ cần được xác nhận lại.
 
Ðiều 1421: (1) Trong mỗi giáo phận, Giám Mục phải đặt các thẩm phán giáo phận. Các người này phải là giáo sĩ.
 
(2) Hội Ðồng Giám Mục có thể cho phép đặt cả các giáo dân làm thẩm phán. Nếu cần, thì một trong những người ấy có thể được lựa chọn để thành lập tập đoàn thẩm phán.
 
(3) Các thẩm phán phải có thanh danh và có bằng tiến sĩ hay ít là cử nhân giáo luật.
 
Ðiều 1422: Ðại Diện tư pháp, các phụ tá Ðại Diện tư pháp và các thẩm phán khác, được bổ nhiệm trong thời hạn nhất định, đừng kể khi phải giữ quy định ở điều 1420, triệt 5. Họ chỉ bị truất chức khi có lý do hợp lệ và hệ trọng.
 
Ðiều 1423: (1) Thay vì các tòa án giáo phận nói ở các điều 1419-1421, nhiều Giám Mục giáo phận, sau khi được Tòa Thánh phê chuẩn, có thể đồng ý với nhau để thành lập một tòa án sơ cấp duy nhất cho các giáo phận của mình. Trong trường hợp đó, khối các Giám Mục ấy hay một Giám Mục được các Ngài đề cử sẽ có tất cả những quyền hành mà mỗi Giám Mục giáo phận có đối với tòa án của mình.
 
(2) Các tòa án nói ở triệt 1, có thể được thành lập cho tất cả các vụ kiện, hoặc chỉ cho một vài loại vụ kiện mà thôi.
 
Ðiều 1424: Trong bất cứ cuộc phán xử nào, thẩm quyền duy nhất có thể kết nạp hai phụ thẩm để làm cố vấn. Những người này có thể là giáo sĩ hay giáo dân, và có đời sống tốt.
 
Ðiều 1425: (1) Ðược dành cho tòa án tập đoàn ba thẩm phán, và phải loại bỏ mọi tục lệ trái nghịch:
 
1. những vụ án hộ sự về: a) dây bí tích chức thánh; b) dây bí tích hôn nhân; ngoại trừ những quy định ở điều 1686 và 1688;
 
2. những vụ án hình sự về: a) những tội phạm có thể đưa đến việc khai trừ khỏi hàng giáo sĩ; b) sự tuyên kết hoặc tuyên bố vạ tuyệt thông.
 
(2) Giám Mục có thể ủy thác những vụ án phức tạp và quan hệ cho tòa án gồm ba hay năm thẩm phán.
 
(3) Ðại Diện tư pháp phải chỉ định các thẩm phán để xét xử từng vụ án theo sĩ lượt, trừ khi Giám Mục quy định cách khác cho mỗi trường hợp.
 
(4) Ở bậc sơ cấp, nếu không thể thành lập tập đoàn thẩm phán, thì Hội Ðồng Giám Mục, bao lâu tình trạng ấy kéo dài, có thể cho phép Giám Mục ủy thác các vụ kiện cho một thẩm phán giáo sĩ duy nhất. Nơi nào có thể được, thẩm phán giáo sĩ duy nhất ấy phải kết nạp thêm một phụ thẩm và một dự thẩm.
 
(5) Một khi các thẩm phán đã được chỉ định, Ðại Diện tư pháp không được thay đổi họ, nếu không có lý do rất hệ trọng và phải nói rõ trong án lệnh.
 
Ðiều 1426: (1) Tòa án tập đoàn phải tiến hành cách tập đoàn và phải ra phán quyết với số phiếu đa số tuyệt đối.
 
(2) Bao lâu có thể được, tòa án tập đoàn phải do Ðại Diện tư pháp hay phụ tá Ðại Diện tư pháp chủ tọa.
 
Ðiều 1427: (1) Nếu có vụ tranh tụng giữa các tu sĩ hay giữa các nhà cùng một dòng tu giáo sĩ thuộc luật giáo hoàng, thì nếu hiến pháp không định cách khác, thẩm phán sơ cấp sẽ là Bề Trên tỉnh; hoặc nếu là đan viện tự trị, thì là Viện Phụ sở tại.
 
(2) Nếu hiến pháp không định cách khác, sự tranh tụng giữa hai tỉnh dòng sẽ do Bề Trên Tổng Quyền, tự mình hay nhờ người được ủy nhiệm, phán xử ở tòa sơ cấp; sự tranh tụng giữa hai đan viện sẽ do Viện Phụ hội trưởng chi dòng phán xử.
 
(3) Sau cùng, nếu có sự tranh tụng giữa các tu sĩ, hay các pháp nhân thuộc về dòng tu khác nhau, hoặc cùng thuộc về một dòng tu giáo sĩ thuộc luật giáo phận hay dòng tu giáo dân, hoặc giữa một tu sĩ với một giáo sĩ triều hay với một giáo dân hay với một pháp nhân không phải là dòng tu, thì tòa án giáo phận sẽ phán xử ở sơ cấp.
 
Mục 2: Dự Thẩm Và Phúc Trình Viên
 
Ðiều 1428: (1) Thẩm phán hay chánh án tòa án tập đoàn có thể chỉ định một dự thẩm để thẩm cứu vụ án. Dự thẩm phải được chọn trong số các thẩm phán của tòa án, hay trong số những người đã được Giám Mục chuẩn nhận để giữ chức vụ ấy.
 
(2) Giám Mục có thể chuẩn nhận để giữ chức vụ dự thẩm những giáo sĩ hay giáo dân nổi bật về hạnh kiểm, khôn ngoan và học thức.
 
(3) Bổn phận của dự thẩm chỉ là thu thập các bằng chứng theo như ủy nhiệm thư của thẩm phán, và sau khi thu thập xong, phải chuyển giao cho thẩm phán. Ngoài ra, nếu sự ủy nhiệm của thẩm phán không định ngược lại, dự thẩm cũng có thể tạm thời quyết định những bằng chứng nào phải được thu thập và theo thể thức nào, nếu tình cờ xảy ra vấn nạn về vấn đề này trong khi thi hành chức vụ của mình.
 
Ðiều 1429: Chánh án tòa án tập đoàn phải chỉ định trong thẩm phán đoàn một thẩm phán làm thuyết trình, tức là phúc trình viên. Người này phải tường trình vụ kiện trong buổi hội các thẩm phán và viết thảo án văn trên giấy tờ. Khi có lý do chính đáng, chánh án có thể thay đổi người ấy bằng một người khác.
 
Mục 3: Chưởng Lý, Bảo Hệ và Lục Sự
 
Ðiều 1430: Trong giáo phận, phải đặt một Chưởng Lý cho những vụ kiện hộ sự có liên can đến công ích và trong những vụ kiện hình sự. Chưởng Lý có bổn phận bảo vệ công ích.
 
Ðiều 1431: (1) Trong các vụ kiện hộ sự, Giám Mục giáo phận có nhiệm vụ xét xem công ích có bị liên can hay không, trừ khi sự can thiệp của chưởng lý đã được luật pháp quy định, hoặc khi sự can thiệp là hiển nhiên cần thiết chiếu theo bản chất của sự việc.

 
 
(2) Nếu chưởng lý đã can thiệp ở cấp dưới, sự can thiệp ở cấp trên phải được suy đoán là cần thiết.
 
Ðiều 1432: Trong giáo phận, phải đặt một Bảo Hệ cho các vụ kiện về sự vô hiệu của việc truyền chức thánh, hoặc sự vô hiệu hay đoạn tiêu hôn nhân. Bảo Hệ phải dẫn ra và trình bày mọi luận cứ hợp lý có thể chống lại sự vô hiệu hay đoạn tiêu.
 
Ðiều 1433: Trong những vụ kiện đòi hỏi sự hiện diện của chưởng lý hay bảo hệ, án từ sẽ vô hiệu nếu những người này không được triệu đến; trừ khi mặc dù họ không được triệu đến, nhưng thật sự họ có mặt, hay ít nữa họ đã có thể thi hành chức vụ của họ bằng sự khảo sát án từ trước khi phán quyết.
 
Ðiều 1434: Nếu không được minh thị dự liệu cách khác:
 
1. mỗi khi luật quy định thẩm phán phải nghe các đương sự, hay chỉ một đương sự, thì chưởng lý và bảo hệ cũng phải được nghe nếu họ can thiệp vào sự phán xử;
 
2. mỗi khi cần phải có sự thỉnh cầu của một đương sự để thẩm phán có thể quyết định một vấn đề, thì sự thỉnh cầu của chưởng lý hay của bảo hệ can thiệp vào sự phán xử cũng có một giá trị như vậy.
 
Ðiều 1435: Sự bổ nhiệm chưởng lý và bảo hệ là việc thuộc quyền của Giám Mục. Dù là giáo sĩ hay giáo dân, họ phải là người có tiếng tốt, có bằng tiến sĩ hay cử nhân giáo luật, khôn ngoan và nhiệt tâm với công lý.
 
Ðiều 1436: (1) Một người có thể vừa giữ chức vụ chưởng lý vừa giữ chức vụ bảo hệ, miễn là không phải trong cùng một vụ kiện.
 
(2) Chưởng lý và bảo hệ có thể được đặt hoặc cho tất cả các vụ kiện, hoặc cho từng vụ kiện nhất định. Họ có thể bị Giám Mục bãi chức vì lý do chính đáng.
 
Ðiều 1437: (1) Trong bất cứ vụ tố tụng nào, lục sự cũng phải can thiệp. Vì thế, các án từ sẽ vô hiệu nếu không có chữ ký của lục sự.
 
(2) Các án từ mà lục sự soạn thảo có giá trị công tín.
 
Chương II: Tòa Án Ðệ Nhị Cấp
 
Ðiều 1438: Ðừng kể các quy định ở điều 1444, triệt 1, số 1:
 
1. từ tòa án của Giám Mục thuộc hạt, phải kháng cáo lên tòa án giáo tỉnh, miễn là tôn trọng quy định ở điều 1439;
 
2. trong những vụ án được xét xử sơ cấp trước tòa án Tổng Giáo Mục giáo tỉnh, phải kháng cáo lên tòa án mà chính Tổng Giám Mục đã chỉ định cách cố định, với sự phê chuẩn của Tòa Thánh;
 
3. đối với những vụ kiện được xét xử trước Bề Trên tỉnh, thì tòa án đệ nhị cấp là tòa của Bề Trên Tổng Quyền. Ðối với những vụ án được xét xử trước Viện Phụ sở tại, thì tòa án đệ nhị cấp phải là tòa ở Viện Phụ Hội Trưởng Chi Dòng.
 
Ðiều 1439: (1) Nếu một tòa án sơ cấp duy nhất đã được thành lập cho nhiều giáo phận theo quy tắc của điều 1432, thì Hội Ðồng Giám Mục phải thành lập một tòa án đệ nhị cấp, với sự phê chuẩn của Tòa Thánh, trừ khi tất cả các giáo phận đó đều là thuộc hạt của cùng một tổng giáo phận.
 
(2) Với sự phê chuẩn của Tòa Thánh, Hội Ðồng Giám Mục có thể thành lập một hay nhiều tòa án đệ nhị cấp, kể cả ngoài trường hợp nói ở triệt 1.
 
(3) Ðối với các tòa án đệ nhị cấp nói ở triệt 1 và 2, Hội Ðồng Giám Mục hay Giám Mục nào được Hội Ðồng Giám Mục chỉ định, có tất cả mọi quyền hành mà Giám Mục giáo phận có đối với tòa án của mình.
 
Ðiều 1440: Nếu thẩm quyền về cấp bực phán xử không được tuân giữ chiếu theo quy tắc của các điều 1438 và 1439, sự vô thẩm quyền của thẩm phán có tính cách tuyệt đối.
 
Ðiều 1441: Tòa án đệ nhị cấp phải được thành lập cùng một thể thức như tòa án sơ cấp. Tuy nhiên, nếu ở bậc phán xử sơ cấp chỉ có một thẩm phán ra phán quyết như đã dự liệu ở điều 1425, triệt 4, thì tòa án đệ nhị cấp phải xét xử vụ án theo thể thức tập đoàn.
 
Chương III: Các Tòa Án Tông Tòa
 
Ðiều 1442: Ðức Thánh Cha là thẩm phán tối cao cho toàn thế giới công giáo. Ngài đích thân phán xử, hay nhờ các tòa án thông thường của Tông Tòa, hay nhờ các thẩm phán do Ngài ủy nhiệm.
 
Ðiều 1443: Tòa án thông thường được Ðức Thánh Cha thành lập để nhận những kháng cáo là Tòa Thượng Thẩm Roma.
 
Ðiều 1444: (1) Tòa Thượng Thẩm Roma phán xử:
 
1. ở đệ nhị cấp, những vụ kiện đã được các tòa án sơ cấp thông thường phán xử và đệ trình lên Tòa Thánh bằng kháng cáo hợp pháp;
 
2. ở đệ tam cấp hay ở cấp kế tiếp, những vụ án đã được chính Tòa Thượng Thẩm Roma hay bất cứ tòa án nào khác phán xử, trừ khi vấn đề đã trở thành quyết tụng.
 
(2) Tòa này cũng phán xử ở bậc sơ cấp những vụ kiện nói ở điều 1405, triệt 3, hay những vụ khác mà Ðức Thánh Cha, hoặc tự ý hoặc theo lời thỉnh cầu của các đương sự, đã dành riêng cho tòa án của mình và giao cho Tòa Thượng Thẩm Roma. Những vụ án này được Tòa Thượng Thẩm Roma phán xử cả ở đệ nhị cấp và cấp kế tiếp, trừ khi trong phúc nghị ủy nhiệm đã ấn định cách khác.
 
Ðiều 1445: (1) Tối Cao Pháp Viện phán xử:
 
1. những đới tranh về sự vô hiệu, những thỉnh nguyện về sự phục hồi nguyên trạng và những thượng tố khác chống lại các phán quyết của Tòa Thượng Thẩm Roma;
 
2. những thượng tố trong những vụ về thân trạng mà Tòa Thượng Thẩm Roma đã từ chối không nhận tái xét;
 
3. những khước biện về nghi ngờ và những vụ án khác chống lại các thẩm phán của Tòa Thượng Thẩm Roma vì những hành động của họ trong khi thi hành chức vụ;
 
4. những vụ tranh chấp thẩm quyền như nói ở điều 1416.
 
(2) Chính tòa án này giải quyết những tranh tụng, được đệ lên hợp lệ, phát nguyên từ hành vi của quyền hành chánh trong Giáo Hội. Tòa án này cũng phán xử những tranh tụng hành chánh khác được Ðức Thánh Cha hay cơ quan của giáo triều Roma đưa đến, và giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan ấy.
 
(3) Ngoài ra, Tối Cao Pháp Viện còn có nhiệm vụ:
 
1. canh phòng việc điều hành công lý cách đứng đắn, và nếu cần, cảnh cáo các luật sư và các người thụ ủy;
 
2. nới rộng thẩm quyền của các tòa án;
 
3. xúc tiến và phê chuẩn việc thành lập những tòa án nói ở các điều 1423 và 1439.
 
 
THIÊN 3: KỶ LUẬT PHẢI GIỮ TRONG CÁC TÒA ÁN
 
Chương I: Chức Vụ Thẩm Phán Và Các Viên Chức Trong Tòa Án
 
Ðiều 1446: (1) Tất cả mọi tín hữu, nhất là các Giám Mục, phải luôn cố gắng làm sao, để tuy phải bảo vệ công lý, hết sức tránh những kiện tụng giữa lòng dân Chúa, và phải dàn xếp chúng cách ôn hòa càng sớm càng hay.
 
(2) Ngay từ đầu, và vào bất cứ giai đoạn nào của cuộc tranh tụng, mỗi khi thấy có hy vọng đem lại kết quả tốt, thẩm phán chớ bỏ qua mà không khuyến dụ và giúp đỡ các đương sự đồng lòng tìm một giải pháp công bình cho cuộc tranh chấp, và chỉ bảo cho họ những đường lối thích hợp để nhắm tới mục tiêu ấy, kể cả việc nhờ những người có thế giá làm trung gian.
 
(3) Nếu sự kiện tụng liên can đến tư ích của các đương sự, thì thẩm phán nên xét xem cuộc tranh chấp có thể được kết liễu ổn thỏa bằng sự điều đình hoặc sự trọng tài, chiếu theo các quy tắc của các điều 1713-1716, hay không.
 
Ðiều 1447: Người nào đã can dự vào một vụ kiện với tư cách là thẩm phán, chưởng lý, bảo hệ, thụ ủy, luật sư, nhân chứng, hay chuyên viên, thì sau đó không được xử vụ ấy ở cấp khác một cách hữu hiệu với tư cách là thẩm phán, hoặc giữ chức vụ phụ thẩm trong chính vụ ấy.
 
Ðiều 1448: (1) Thẩm phán không nên nhận xử một vụ mà chính mình có liên hệ cách nào đó vì lý do huyết tộc hay hôn thuôc ở bất cứ cấp bực trực hệ nào và cho đến cấp bốn bàng hệ, hoặc vì lý do giám hộ và quản tải, vì tương giao thân mật, vì thù oán lớn, hoặc vì sẽ hưởng một mối lợi hay thoát được một sự thiệt hại.
 
(2) Trong những trường hợp ấy, chưởng lý, bảo hệ, phụ thẩm, dự thẩm, phải tránh thi hành chức vụ.
 
Ðiều 1449: (1) Trong những trường hợp nói ở điều 1448, nếu chính thẩm phán không cáo thoái, đương sự có thể cáo tị.
 
(2) Ðại Diện tư pháp phải xét xử về sự cáo tị. Nếu chính Ðại Diện tư pháp bị cáo tị, Giám Mục chủ tọa tòa án sẽ xét xử.
 
(3) Nếu Giám Mục là thẩm phán và bị cáo tị, chính Ngài phải từ chối phán xử.
 
(4) Nếu sự cáo tị chống lại chưởng lý, bảo hệ hay các viên chức khác của tòa án, thì người xét xử khước biện sẽ là chánh án tòa án tập đoàn, hay chính thẩm phán nếu là thẩm phán duy nhất.
 
Ðiều 1450: Nếu sự cáo tị được công nhận, những người liên hệ phải được thay thế, nhưng không được thay đổi cấp bực phán xử.
 
Ðiều 1451: (1) Vấn đề cáo tị phải được xác định hết sức nhanh chóng, sau khi nghe các đương sự, chưởng lý hay bảo hệ, nếu họ can dự trong vụ kiện và không bị cáo tị.
 
(2) Những hành vi của thẩm phán đã làm trước khi bị cáo tị đều hữu hiệu, nhưng những hành vi làm sau khi có đơn cáo tị phải bị tiêu hủy nếu một đương sự yêu cầu trong hạn mười ngày kể từ khi sự cáo tị được công nhận.
 
Ðiều 1452: (1) Trong một vụ kiện chỉ liên can đến ích lợi tư, thẩm phán chỉ có thể tiến hành khi nào có sự thỉnh cầu của đương sự. Tuy nhiên, một khi đã có sự khởi tố hợp lệ, thẩm phán có thể, và thậm chí buộc phải tự động tiến hành trong những vụ hình sự hay những vụ liên can đến công ích Giáo Hội và phần rỗi của các linh hồn.
 
(2) Ngoài ra, thẩm phán có thể bổ khuyết sự sơ xuất của các đương sự khi xuất dẫn bằng chứng hay đối kháng các khước biện mỗi khi nhận thấy cần thiết để tránh một phán quyết bất công trầm trọng, miễn là tôn trọng những quy định ở điều 1600.
 
Ðiều 1453: Các thẩm phán và tòa án phải liệu sao cho các vụ kiện kết thúc càng sớm càng tốt, miễn là công lý được bảo đảm, và phải làm thế nào để không kéo dài quá một năm ở tòa sơ cấp và không quá sáu tháng ở tòa đệ nhị cấp.
 
Ðiều 1454: Tất cả những nhân viên làm thành tòa án và những người cộng tác vào đó đều phải tuyên thệ chu toàn nhiệm vụ cách chu đáo và trung thành.
 
Ðiều 1455: (1) Thẩm phán và những nhân viên tòa án phải giữ bí mật chức vụ trong tất cả các phán xử hình sự và trong vụ án hộ sự nào mà sự tiết lộ một vài án từ tố tụng có thể gây tổn hại cho các đương sự.
 
(2) Họ cũng phải luôn luôn giữ bí mật về cuộc thảo luận giữa các thẩm phán trong tòa án tập đoàn trước khi ra phán quyết, cũng như về những lần bỏ phiếu và về các ý kiến được phát biểu, miễn là tôn trọng quy định ở điều 1609, triệt 4.
 
(3) Hơn nữa, mỗi khi bản chất của vụ án hay của các bằng chứng hệ trọng đến nỗi sự phổ biến án từ và các bằng chứng đưa đến nguy cơ làm cho người khác bị mất thanh danh, hay gây chia rẽ, gương xấu, hay những sự bất tiện khác, thẩm phán có thể bắt buộc các nhân chứng, chuyên viên, các đương sự và những luật sư, hay người thụ ủy của họ, phải thề giữ bí mật.
 
Ðiều 1456: Cấm thẩm phán và tất cả các viên chức trong tòa án nhận lãnh bất cứ quà tặng nào trong dịp thi hành việc phán xử.
 
Ðiều 1457: (1) Các thẩm phán có thể bị nhà chức trách có thẩm quyền phạt bằng những hình phạt xứng hợp, kể cả việc cách chức, khi nào chắc chắn và rõ ràng là họ có thẩm quyền nhưng lại từ chối không chịu phán xử; hay nếu không có nền tảng nào dựa trên một quy định của pháp luật mà họ cứ tuyên bố mình có thẩm quyền để thẩm cứu và phán xử vụ kiện; hay nếu họ vi phạm luật buộc giữ bí mật; hay đã làm thiệt hại cách nào khác cho những người đương tụng do lỗi cố tình hay bất cẩn trầm trọng.
 
(2) Các viên chức và trợ tá của tòa án cũng phải chịu cùng hình phạt như vậy, nếu họ lỗi bổn phận như nói trên đây. Thẩm phán cũng có quyền phạt họ.
 
Chương II: Thứ Tự Phải Theo Khi Xét Xử
 
Ðiều 1458: Các vụ kiện phải được xét xử theo thứ tự chấp đơn và đăng ký trong sổ, trừ khi có một vụ nào đòi được cứu xét cấp bách trước các vụ khác. Trong trường hợp ấy, cần phải có án lệnh đặc biệt có viện dẫn lý do.
 
Ðiều 1459: (1) Những hà tì khiến cho bản án vô hiệu có thể được nêu lên như khước biện, hay do chính thẩm phán tuyên bố chiểu chức vụ, ở bất cứ giai đoạn hay cấp bực nào của sự tố tụng.
 
(2) Ngoài những trường hợp nói ở triệt 1, những khước biện trì hoãn, nhất là khi liên quan đến thành phần và thể thức tố tụng, phải được viện dẫn trước giai đoạn đối tụng, trừ khi các khước biện ấy chỉ xuất hiện sau đó; trong trường hợp ấy, các khước biện phải được xét xử càng sớm càng tốt.
 
Ðiều 1460: (1) Nếu sự khước biện đưa ra chống lại thẩm quyền của thẩm phán, thì chính thẩm phán phải xét vấn đề.
 
(2) Trong trường hợp khước biện về sự vô thẩm quyền tương đối, nếu thẩm phán tuyên bố mình có thẩm quyền, thì quyết định ấy không cho phép kháng cáo, nhưng không cấm đới tranh về sự vô hiệu và xin phục hồi nguyên trạng.
 
(3) Nếu thẩm phán tuyên bố mình vô thẩm quyền, đương sự nào thấy mình bị thiệt hại có thể thượng tố lên tòa án kháng cáo trong hạn mười lăm ngày hữu ích.
 
Ðiều 1461: Ở bất cứ giai đoạn nào của vụ án, nếu thẩm phán biết mình vô thẩm quyền tuyệt đối thì phải tuyên bố sự vô thẩm quyền của mình.
 
Ðiều 1462: (1) Những khước biện về vấn đề quyết tụng, về sự điều đình, và về các khước biện thất hiệu khác, - cũng gọi là "chấm dứt tố tụng" -, phải được viện dẫn và cứu xét trước khi đối tụng. Ai nêu lên các khước biện đó sau giai đoạn ấy, thì tuy không bị bác khước, nhưng sẽ phải trả tổn phí, trừ khi chứng minh được mình không trì hoãn khước biện vì gian tình.
 
(2) Những khước biện thất hiệu khác sẽ được nêu ra trong lúc đối tụng, và phải được cứu xét hợp thời theo những quy luật về các vấn đề phụ đới.
 
Ðiều 1463: (1) Những tố quyền phản tố chỉ được viện dẫn cách hữu hiệu trong hạn ba mươi ngày kể từ lúc đối tụng.
 
(2) Những tố quyền phản tố đó phải được xét xử đồng thời với tố quyền khởi tố, tức là cùng một cấp bực tòa án, trừ khi cần phải phán xử riêng biệt hay khi thẩm phán nhận thấy thủ tục này thích hợp hơn.
 
Ðiều 1464: Những vấn đề liên quan đến tiền ký quỹ để trả án phí, hay đến vấn đề cấp tư pháp bảo trợ miễn phí được thỉnh cầu ngay từ lúc bắt đầu tố tụng, hay những vấn đề tương tự khác, phải được xét xử trước khi đối tụng.
 
Chương III: Các Hạn Kỳ Và Triển Hạn
 
Ðiều 1465: (1) Hạn kỳ thất hiệu, - tức là hạn kỳ được luật pháp ấn định với hậu quả tiêu hủy quyền lợi -, không thể được triển hạn, và, nếu các đương sự không yêu cầu, cũng không được rút ngắn lại cách hữu hiệu.
 
(2) Những hạn kỳ "tư pháp" và "quy ước" có thể được thẩm phán gia hạn trước khi chúng hết hạn, khi có lý do chính đáng, sau khi nghe các đương sự hay do chính họ yêu cầu; nhưng không bao giờ được rút ngắn cách hữu hiệu nếu không có sự thỏa thuận của các đương sự.
 
(3) Tuy nhiên, thẩm phán phải canh chừng kẻo việc kiện tụng kéo dài quá đáng vì những sự triển hạn.
 
Ðiều 1466: Trong trường hợp luật pháp không dự liệu những hạn kỳ để thi hành các hành vi tố tụng, thẩm phán phải ấn định chúng, sau khi đã xét đến tính chất của từng hành vi.
 
Ðiều 1467: Nếu ngày được chỉ định cho một hành vi tư pháp nhằm vào ngày tòa án không làm việc, thì phải hiểu là hạn kỳ được triển hạn đến ngày đầu tiên liền đó không phải là ngày nghỉ.
 
Chương IV: Nơi Phán Xử
 
Ðiều 1468: Nếu có thể được, mỗi tòa án phải có một trụ sở cố định, và phải mở cửa vào các giờ ấn định.
 
Ðiều 1469: (1) Một thẩm phán nào bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ của mình do bạo lực hay bị ngăn trở thi hành quyền tài phán ở đó, thì có thể hành sử quyền tài phán và tuyên phán quyết ngoài lãnh thổ của mình, sau khi đã thông báo cho Giám Mục giáo phận biết.
 
(2) Ngoài trường hợp nói ở triệt 1, khi có lý do chính đáng, và sau khi nghe các đương sự, thẩm phán có thể ra khỏi lãnh thổ của mình để thu thập bằng chứng. Tuy nhiên, cần phải có phép của Giám Mục giáo phận của nơi sẽ đến và phải lưu tại trụ sở do Ngài chỉ định.
 
Chương V: Những Người Ðược Vào Phòng Xử
 
Cách Thức Soạn Thảo Và Lưu Trữ Án Từ
 
Ðiều 1470: (1) Nếu luật riêng không dự liệu cách khác, trong khi cử hành phiên tòa, chỉ được có mặt trong phòng xử những người mà luật pháp hay thẩm phán xét là cần thiết để tiến hành việc tố tụng.
 
(2) Nếu những người có mặt trong phiên tòa có lỗi nặng vì không tôn trọng và vâng phục tòa án, thì thẩm phán có thể dùng hình phạt xứng hợp để nhắc nhở các nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, thẩm phán cũng có thể huyền chức các luật sư và người thụ ủy, không cho hành nghề trước tòa án Giáo Hội.
 
Ðiều 1471: Nếu người được thẩm vấn xử dụng một ngôn ngữ mà thẩm phán và các đương sự không hiểu, thì phải nhờ đến một thông ngôn đã tuyên thệ do thẩm phán chỉ định. Các lời khai phải được ghi lại bằng nguyên ngữ trên giấy tờ và kèm theo bản dịch. Thông ngôn cũng được xử dụng nếu phải thẩm vấn một người điếc hay câm, trừ khi thẩm phán muốn người này trả lời các câu hỏi bằng cách viết trên giấy tờ.
 
Ðiều 1472: (1) Các án từ tư pháp, dù là án từ liên quan đến nội dung vấn đề, - tức là "án từ của vụ kiện" -, dù là án từ thuộc về thủ tục, - tức là "án từ tố tụng" -, đều phải được thảo ra trên giấy tờ.
 
(2) Mỗi trang của án từ phải được ghi số và mang ấn dấu công chính.
 
Ðiều 1473: Mỗi khi đòi các đương sự hay nhân chứng phải ký tên vào án từ tư pháp, nếu một đương sự hay nhân chứng không thể hay không muốn ký, thì phải ghi rõ điều đó trong án từ; đồng thời, thẩm phán và lục sự phải chứng nhận rằng chính án từ đã được đọc từng lời một cho đương sự hay nhân chứng nghe, nhưng những người này không thể hay không muốn ký tên.
 
Ðiều 1474: (1) Trong trường hợp kháng cáo, một bản sao các án từ, có mang chứng thực của lục sự, phải được gởi lên tòa cấp trên.
 
(2) Nếu các án từ được viết bằng một ngôn ngữ mà tòa cấp trên không biết, thì phải được dịch ra ngôn ngữ mà tòa đó biết, và phải cẩn thận để bản dịch được trung thực.
 
Ðiều 1475: (1) Sau khi kết thúc sự phán xử, các tài liệu thuộc quyền sở hữu của các tư nhân phải được gởi trả cho họ, nhưng phải giữ lại một bản sao.
 
(2) Nếu không có lệnh của thẩm phán, cấm các lục sự và chưởng ấn không được cấp phát bản sao án từ tư pháp và các tài liệu thu thập trong vụ tố tụng.
 
THIÊN 4: CÁC ÐƯƠNG SỰ TRONG VỤ KIỆN
 
Chương I: Nguyên Ðơn Và Bị Ðơn
 
Ðiều 1476: Bất cứ ai, đã được rửa tội hay không, cũng có thể đầu đơn khởi tố; bên bị kiện hợp lệ phải trả lời.
 
Ðiều 1477: Mặc dù nguyên đơn hay bị đơn đã chọn người thụ ủy hay luật sư, họ vẫn buộc phải luôn đích thân trình diện ở tòa theo quy định của luật pháp hay của thẩm phán.
 
Ðiều 1478: (1) Những vị thành niên và những người thiếu xử dụng trí khôn chỉ có thể ra tòa nhờ cha mẹ, hay người giám hộ, hay người quản tài, đừng kể quy định ở triệt 3.
 
(2) Nếu thẩm phán xét rằng quyền lợi của các vị thành niên xung đột với quyền lợi của cha mẹ, của người giám hộ, hay của người quản tài, hoặc xét rằng những người này không thể bảo vệ hoàn toàn những quyền lợi của các vị thành niên, thì thẩm phán phải chỉ định một người giám hộ hay người quản tài riêng cho các vị thành niên trước tòa.
 
(3) Nhưng trong những vụ thiêng liêng hay liên quan đến việc thiêng liêng, nếu vị thành niên đã biết xử dụng trí khôn, thì có thể khởi tố hoặc trả lời mà không cần phải có sự ưng thuận của cha mẹ hay người giám hộ; và nếu đã đủ mười bốn tuổi trọn, các em có thể đích thân ra tòa; nếu không, thẩm phán phải chỉ định cho họ một người quản tài.
 
(4) Những người bị cấm quản trị tài sản và những người tàn tật tâm trí, chỉ có thể đích thân ra tòa để trả lời về tội phạm của mình hay khi có lệnh của thẩm phán. Trong những vấn đề khác, họ phải khởi tố và trả lời nhờ những người quản tài của họ.
 
Ðiều 1479: Khi người giám hộ hay quản tài đã được chính quyền dân sự chỉ định, thì họ có thể được thẩm phán Giáo Hội chấp nhận sau khi hỏi ý kiến, nếu có thể được, của Giám Mục giáo phận của chính người được ủy thác cho người giám hộ hay quản tài. Nếu không có người giám hộ hay quản tài, hay nếu xét thấy người đã đặt không thể chấp nhận được, thì chính thẩm phán phải chỉ định một người giám hộ hay một người quản tài cho vụ kiện.
 
Ðiều 1480: (1) Các pháp nhân ra tòa qua những người đại diện hợp pháp của họ.
 
(2) Trong trường hợp không có đại diện hay người này chểnh mảng, thì chính Bản Quyền phải tự mình hay nhờ người khác ra tòa thay cho pháp nhân thuộc quyền của mình.
 
Chương II: Các Người Thụ Ủy Cho Vụ Kiện Và Các Luật Sư
 
Ðiều 1481: (1) Các đương sự có thể tự ý chọn cho mình một luật sư và một người thụ ủy. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp nói ở triệt 2 và 3, đương sự có thể đích thân khởi tố hoặc trả lời, trừ khi thẩm phán thấy cần phải có sự giúp đỡ của một người thụ ủy hay một luật sư.
 
(2) Trong một phán xử hình sự, bị cáo luôn luôn phải có một luật sư do chính mình chọn hay do thẩm phán chỉ định.
 
(3) Trong một phán xử hộ sự có liên quan đến các vị thành niên hay công ích, ngoại trừ các vụ hôn phối, thẩm phán phải chiểu chức vụ đặt một người biện hộ cho bên nào thiếu người bảo vệ.
 
Ðiều 1482: (1) Mỗi người chỉ có quyền chọn cho mình một người thụ ủy; người này không được nhờ người khác thay thế mình, nếu không có năng quyền minh thị cho phép.
 
(2) Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng, một người cũng có thể chọn nhiều người thụ ủy; nhưng những người này phải được chỉ định thể nào để giữa họ có thứ tự ưu tiên.
 
(3) Có thể chọn nhiều luật sư cùng một lúc.
 
Ðiều 1483: Người thụ ủy và luật sư phải là người trưởng thành và có thanh danh; ngoài ra, luật sư phải là công giáo, trừ khi Giám Mục giáo phận cho phép cách khác, và có bằng tiến sĩ giáo luật, hay phải là một chuyên viên thật sự, và được chính Giám Mục ưng chuẩn.
 
Ðiều 1484: (1) Trước khi đảm nhiệm chức vụ, người thụ ủy và luật sự phải nạp ở tòa án ủy nhiệm thư công chính.
 
(2) Tuy nhiên, để tránh cho một quyền lợi khỏi bị tiêu hủy, thẩm phán có thể chấp nhận một người thụ ủy cả khi người này không trình ủy nhiệm thư, miễn là được bảo đảm thích hợp. Nhưng án từ sẽ mất hiệu lực nếu trong hạn kỳ thất hiệu do thẩm phán ấn định, người thụ ủy không đệ trình ủy nhiệm thư cách hợp thức.
 
Ðiều 1485: Nếu không có ủy nhiệm thư đặc biệt, người thụ ủy không thể thi hành cách hữu hiệu sự từ khước tố quyền, sự tiến hành vụ kiện hay các hành vi tư pháp; cũng như không thể điều đình, thỏa hiệp, dàn xếp trọng tài, và nói chung những vấn đề mà luật pháp đòi phải có ủy nhiệm thư đặc biệt.
 
Ðiều 1486: (1) Ðể việc triệu hồi người thụ ủy và luật sư có hiệu lực, cần phải thông báo cho họ biết; nếu sự đối tụng đã bắt đầu, phải thông báo sự triệu hồi cho cả thẩm phán và đương sự đối phương biết nữa.
 
(2) Sau khi phán quyết được ban hành, quyền lợi và nghĩa vụ kháng cáo vẫn thuộc về người thụ ủy, miễn là người chủ ủy không phản đối.
 
Ðiều 1487: Khi có lý do hệ trọng, người thụ ủy cũng như luật sư có thể bị bãi chức do án lệnh của thẩm phán ban hành chiểu chức vụ, hay do đương sự yêu cầu.
 
Ðiều 1488: (1) Cấm người thụ ủy và luật sư mua quyền lợi đang tranh tụng, hoặc thỏa hiệp để đòi thù lao quá mức hay để chia phần đồ vật đang tương tranh. Sự thỏa hiệp như thế, nếu có, sẽ vô hiệu, và họ có thể bị thẩm phán phạt tiền. Ngoài ra, luật sư có thể bị huyền chức và nếu tái phạm, có thể bị Giám Mục chủ tịch tòa án khai trừ khỏi danh sách các luật sư.
 
(2) Cũng bị phạt như thế, những luật sư và những người thụ ủy nào, bằng cách gian lận luật pháp, rút các vụ án khỏi tòa án có thẩm quyền để cho các tòa án khác phán xử có lợi hơn.
 
Ðiều 1489: Luật sư và người thụ ủy nào, vì lý do quà cáp hay lời hứa hẹn, hay vì bất cứ lý do gì mà phản bội bổn phận của mình, sẽ bị đình chỉ thi hành quyền bảo trợ, và bị phạt tiền hay những hình phạt khác tương xứng.
 
Ðiều 1490: Nếu có thể được, trong mỗi tòa án nên có những người bảo trợ cố định do chính tòa án trả lương để giữ chức vụ luật sư và người thụ ủy, nhất là trong những vụ hôn phối, để các đương sự, nếu thích, có thể chọn họ.
 
THIÊN 5: TỐ QUYỀN VÀ KHƯỚC BIỆN
 
Chương I: Tố Quyền Và Khước Biện Nói Chung
 
Ðiều 1491: Mọi quyền lợi đều được bảo vệ không những bởi tố quyền mà còn bởi khước biện nữa, trừ khi minh thị dự liệu khác.
 
Ðiều 1492: (1) Mọi tố quyền đều bị tiêu diệt bởi thời hiệu theo quy tắc của luật pháp hay bởi cách thức hợp lệ khác, trừ những tố quyền về thân trạng thì không bao giờ bị tiêu diệt.
 
(2) Ðừng kể quy định ở điều 1462, khước biện luôn luôn có thể được viện dẫn, bởi vì nó có tính cách vĩnh viễn.
 
Ðiều 1493: Nguyên đơn có thể đồng thời khởi tố một người bằng nhiều tố quyền khác nhau về chính một vấn đề hay về nhiều vấn đề, miễn là các tố quyền không được tương phản nhau và không vượt quá thẩm quyền của tòa án mà nguyên đơn nại đến.
 
Ðiều 1494: (1) Bị đơn có thể lập tố quyền phản tố, trước cùng một thẩm phán và trong cùng một vụ kiện, để chống lại nguyên đơn vì vấn đề liên quan đến tố quyền chính của vụ kiện, hoặc để nguyên đơn rút lại hay giảm thiểu yêu sách.
 
(2) Sự phản tố chống lại một phản tố sẽ không được chấp nhận.
 
Ðiều 1495: Tố quyền phản tố phải được đệ trình lên thẩm phán tại nơi đã nạp tố quyền đầu tiên, cho dù thẩm phán ấy chỉ được ủy nhiệm để xử một vụ án mà thôi, hay là vô thẩm quyền tương đối vì lý do nào khác.
 
Chương II: Các Tố Quyền Và Khước Biện Nói Riêng
 
Ðiều 1496: (1) Người nào chứng minh được, bằng những luận cứ hữu lý, rằng mình có quyền trên một sự vật nào đó mà kẻ khác đang cầm giữ, và nếu sự vật ấy không được trả lại cho mình giữ gìn thì họ sẽ bị thiệt hại nặng, người đó có quyền được thẩm phán cho cung thác sự vật ấy.
 
(2) Trong những hoàn cảnh tương tợ, người ấy có thể xin ngăn cản một người khác hành sử quyền lợi.
 
Ðiều 1497: (1) Sự cung thác một sự vật cũng được chấp nhận để bảo hiểm một trái khoản, miễn là quyền trái chủ được chứng minh đầy đủ.
 
(2) Sự cung thác cũng có thể nới rộng đến các tài sản của trái hộ đang ở trong tay những người đệ tam với bất cứ danh nghĩa nào, cũng như đến các trái khoản của trái hộ.
 
Ðiều 1498: Không bao giờ được quyết định cung thác một sự vật và ngăn cản hành sử một quyền lợi, nếu sự thiệt hại đang lo ngại có thể bồi thường được bằng cách khác, và nếu có một bảo chứng đủ sễ có thể bồi thường được.
 
Ðiều 1499: Thẩm phán có thể bắt buộc người được phép cung thác một sự vật hay ngăn cản thi hành một quyền lợi, phải nạp một bảo chứng trước để bồi thường những thiệt hại trong trường hợp người ấy không chứng minh được quyền lợi của mình.
 
Ðiều 1500: Về bản tính và giá trị của tố quyền chấp hữu, phải tuân giữ những quy định của dân luật địa phương ở nơi tọa lạc sự vật mà sự chấp hữu đang tương tranh.
 
PHầN II: TỐ TỤNG HỘ SỰ
 
Tiết I: Tố Tụng Hộ Sự Thông Thường
 
THIÊN 1: VIỆC KHỞI TỐ
 
Chương I: Ðơn Khởi Tố
 
Ðiều 1501: Thẩm phán không được xét một vụ kiện nếu không có đơn thỉnh nguyện do người có lợi ích, hay do chưởng lý, đệ lên theo quy tắc giáo luật.
 
Ðiều 1502: Ai muốn kiện một người khác phải đệ đơn đến thẩm phán có thẩm quyền. Trong đơn phải nói đối tượng của sự tranh tụng và xin thẩm phán can thiệp.
 
Ðiều 1503: (1) Thẩm phán có thể nhận sự thỉnh cầu miệng khi nguyên đơn bị ngăn trở không đệ đơn được, hay khi vụ án dễ cứu xét và không quan trọng.
 
(2) Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, thẩm phán phải ra lệnh cho lục sự thảo án từ trên giấy tờ và phải đọc cho đương sự nghe để chấp thuận. Giấy này thay thế cho đơn khởi tố của nguyên đơn xét về hết các hiệu lực pháp lý.
 
Ðiều 1504: Ðơn khởi tố phải:
 
1. nêu lên vụ kiện được đưa ra trước thẩm phán nào, thỉnh cầu điều gì và đối lại với ai;
 
2. chỉ rõ quyền lợi nào nguyên đơn dựa vào mà khởi tố, và, ít là cách sơ lược, những sự kiện và bằng chứng nào để xác lập những điều mình quả quyết;
 
3. được nguyên đơn hay người thụ ủy ký tên; ghi ngày, tháng và năm, cũng như nơi mà nguyên đơn hay người thụ ủy cư ngụ, hay nơi mà họ chọn để nhận án từ;
 
4. chỉ rõ cư sở hay bán cư sở của bị đơn.
 
Ðiều 1505: (1) Sau khi nhận thấy vấn đề thuộc về thẩm quyền của mình, và nguyên đơn không thiếu năng cách hợp lệ để ra tòa, thẩm phán duy nhất hay chánh án tòa án tập đoàn phải ra án lệnh chấp đơn hay bác đơn.
 
(2) Ðơn chỉ có thể bị bác:
 
1. nếu thẩm phán hay tòa án không có thẩm quyền;
 
2. nếu rõ ràng nguyên đơn thiếu năng cách hợp pháp để ra tòa;
 
3. nếu không giữ các quy định ở điều 1504, số 1-3;
 
4. nếu qua đơn khởi tố, thấy rằng điều thỉnh nguyện hoàn toàn vô căn cứ, và sẽ không thể nào xuất hiện một nền tảng trong khi diễn tiến vụ án.
 
(3) Nếu đơn bị bác vì một hà tì có thể sửa chữa được, nguyên đơn có thể trình lại một đơn khác hợp thức và nộp trình cho thẩm phán đã bác đơn.
 
(4) Trong hạn mười ngày, đương sự nếu viện đủ lý lẽ, có thể kháng cáo về sự bác đơn lên tòa án kháng cáo, hay lên tòa án tập đoàn nếu đơn bị chánh án bác. Vấn đề bác đơn phải được quyết định hết sức mau lẹ.
 
Ðiều 1506: Nếu trong hạn một tháng kể từ khi nộp đơn mà thẩm phán không ra án lệnh chấp hay bác đơn theo quy tắc của điều 1505, đương sự quan thiết có thể đốc thúc đòi thẩm phán phải chu toàn bổn phận của mình. Sau khi đốc thúc như thế mà thẩm phán vẫn không trả lời, thì sau mười ngày trôi qua, đơn được kể như được chấp nhận.
 
CHƯƠNG II: SỰ TRIỆU HOÁN VÀ SỰ CÁO TRI ÁN TỪ
 
Ðiều 1507: (1) Trong án lệnh chấp đơn của nguyên đơn, thẩm phán hay chánh án phải gọi ra tòa hay triệu hoán các đương sự khác để xác định đối tượng tranh tụng, bằng cách ấn định cho các đương sự phải trả lời bằng giấy tờ, hay trình diện trước thẩm phán để thỏa thuận những nghi vấn. Nếu qua sự trả lời viết, thẩm phán nhận thấy sự cần thiết phải triệu tập các đương sự, thì có thể ấn định điều đó bằng một án lệnh.
 
(2) Nếu đơn được chấp nhận theo quy tắc của điều 1506, thì án lệnh đòi ra tòa phải được ban hành trong hạn hai mươi ngày kể từ lúc đốc thúc nói ở điều luật ấy.
 
(3) Nếu các đương sự đối tranh tự động trình diện trước thẩm phán để kiện, thì không cần phải triệu hoán nữa; song lục sự phải ghi chú trong án từ là các đương sự đã có mặt ở tòa.
 
Ðiều 1508: (1) Án lệnh triệu ra tòa phải được cáo tri tức khắc cho bị đơn và đồng thời, cho những người nào phải ra trình diện.
 
(2) Ðơn khởi tố sẽ được gởi kèm lệnh triệu hoán, trừ khi vì lý do hệ trọng, thẩm phán nhận thấy không nên cho đương sự biết đơn khởi tố trước khi xuất đình.
 
(3) Nếu vụ kiện chống lại một người không có tự do hành sử quyền lợi của mình, hay không được tự do quản trị những sự vật đang bị tranh chấp, thì lệnh đòi ra tòa, tùy trường hợp, phải được cáo tri cho người giám hộ, người quản tài, người thụ ủy đặc biệt, hay đến người nào, chiếu theo luật pháp, phải nhân danh bị đơn để theo đuổi việc tố tụng.
 
Ðiều 1509: (1) Sự cáo tri các lệnh triệu hoán, các án lệnh, phán quyết, và các án từ khác phải được thực hiện qua bưu điện hay bằng cách nào khác chắc chắn hơn cả, miễn là giữ các quy tắc do luật địa phương ấn định.
 
(2) Sự kiện và cách thức cáo tri phải được ghi chú trong án từ.
 
Ðiều 1510: Nếu bị đơn từ chối không nhận lệnh triệu hoán, hay ngăn cản không cho sự triệu hoán đến tay mình, thì được coi như đã được triệu hoán hợp lệ.
 
Ðiều 1511: Nếu lệnh triệu hoán không được cáo tri hợp thức, những án từ của vụ kiện trở thành vô hiệu, đừng kể quy định của điều 1507, triệt 3.
 
Ðiều 1512: Một khi lệnh triệu hoán được cáo tri hợp thức, hoặc khi các đương sự tự động trình diện trước thẩm phán để lập vụ kiện:
 
1. nội vụ không còn có tính cách yên ổn nữa;
 
2. vụ kiện trở nên là của thẩm phán hay của tòa án ở nơi mà tố quyền nại đến, miễn là họ có thẩm quyền;
 
3. quyền tài phán của thẩm phán thụ ủy được củng cố và vì vậy, không bị chấm dứt do sự mãn nhiệm của người chủ ủy;
 
4. thời hiệu bị gián đoạn, ngoại trừ khi đã có dự liệu cách khác;
 
5. cuộc tranh tụng khai mào; và do đó lập tức áp dụng nguyên tắc: "bao lâu cuộc tranh tụng chưa ngã ngũ, thì không được thay đổi gì hết" (lite pendente, nihil innovetur).
 
THIÊN 2: SỰ  ÐỐI TỤNG
 
Ðiều 1513: (1) Sự đối tụng xảy ra khi nào các giới hạn của sự tranh tụng, rút từ những lời thỉnh cầu và phúc đáp của các đương sự, được xác định do án lệnh của thẩm phán.
 
(2) Những lời thỉnh cầu và phúc đáp của đương sự có thể được trình bày không những chỉ trong đơn khởi tố, mà còn qua thư trả lời lệnh triệu hoán hay qua những lời tuyên bố miệng trước thẩm phán. Nhưng trong những vụ án khó hơn, thẩm phán phải triệu tập các đương sự để thỏa thuận một vấn nạn hay nhiều vấn nạn mà các đương sự sẽ phải trả lời trong khi phán quyết.
 
(3) Án lệnh của thẩm phán phải được cáo tri cho các đương sự; nếu họ không đồng ý, thì trong hạn mười ngày, các đương sự có thể kháng cáo lên chính thẩm phán để xin sửa đổi án lệnh; vấn đề này phải được chính thẩm phán ấy giải quyết hết sức nhanh chóng bằng một án lệnh.
 
Ðiều 1514: Một khi đã được xác định, các giới hạn của cuộc tranh tụng chỉ có thể được thay thế hữu hiệu bằng một án lệnh mới khi có lý do hệ trọng do một đương sự yêu cầu, và sau khi đã nghe ý kiến của các đương sự khác cũng như sau khi cân nhắc các lý lẽ của họ.
 
Ðiều 1515: Sau khi đã có sự đối tụng, người chấp hữu sự vật của kẻ khác không còn là ngay tình nữa; vì thế, nếu bị kết án phải hoàn lại sự vật, thì cũng phải trả lại các hoa lợi thu được từ ngày đối tụng và phải bồi thường các thiệt hại.
 
Ðiều 1516: Sau khi đã có sự đối tụng, thẩm phán phải ấn định cho các đương sự một khoảng thời gian thích hợp để xuất trình và bổ túc các bằng chứng.
 
 
THIÊN 3: SỰ  TIẾN HÀNH VỤ KIỆN
 
Ðiều 1517: Vụ kiện bắt đầu bằng sự triệu hoán; và kết thúc không những chỉ bằng phán quyết chung thẩm, nhưng còn bằng những cách thức khác do luật pháp ấn định.
 
Ðiều 1518: Nếu đương sự đối tranh mệnh một, hay thay đổi trạng thái, hay chấm dứt chức vụ mà vì lý do đó đương sự khởi kiện:
 
1. nếu sự thẩm vấn chưa kết thúc, vụ kiện phải được đình chỉ cho đến khi người thừa kế của người quá cố, hay kẻ kế vị, hay người có lợi ích, tiếp nối cuộc kiện tụng;
 
2. nếu sự thẩm vấn đã kết thúc, thẩm phán phải tiếp tục tiến hành thủ tục bằng việc triệu hoán người thụ ủy nếu có, hoặc người thừa kế hay người kế vị của người quá cố.
 
Ðiều 1519: (1) Nếu người giám hộ hay người quản tài hay người thụ ủy buộc phải đặt chiếu theo điều 1481, các triệt 1 và 3, ngưng chức vụ, thì vụ kiện tạm thời đình chỉ.
 
(2) Tuy nhiên, thẩm phán phải đặt sớm hết sức một người giám hộ hay quản tài khác; thẩm phán cũng có thể đặt một người thụ ủy cho cuộc tranh tụng nếu đương sự không lo chọn trong hạn kỳ ngắn do chính thẩm phán ấn định.
 
Ðiều 1520: Nếu trong vòng sáu tháng mà không hành vi tố tụng nào được các đương sự thi hành, mặc dù họ không bị ngăn trở, thì vụ kiện bị thất hiệu. Luật địa phương có thể ấn định hạn kỳ thất hiệu khác.
 
Ðiều 1521: Sự thất hiệu phát sinh hiệu lực do chính pháp luật, và đối với mọi người, kể cả với các vị thành niên và những người bị đồng hóa với vị thành niên; sự thất hiệu phải được tuyên bố chiểu chức vụ; tuy vẫn duy trì quyền đòi bồi thường chống lại những người giám hộ, quản tài, quản nhiệm, thụ ủy nào không chứng minh được mình không có lỗi.
 
Ðiều 1522: Sự thất hiệu sẽ tiêu hủy các án từ tố tụng, nhưng không tiêu hủy các án tử của vụ kiện. Hơn nữa, án từ của vụ kiện có thể có giá trị ở thẩm cấp khác, miễn là vụ kiện nhằm đến cùng những người ấy hoặc cùng một đối tượng tương tự. Nhưng đối với những người ngoại cuộc, các án từ này chỉ có hiệu lực như là tài liệu mà thôi.
 
Ðiều 1523: Phí tổn của một vụ kiện bị thất hiệu phải do những người đương tranh tụng trang trải, mỗi người tương ứng với phần của mình.
 
Ðiều 1524: (1) Nguyên đơn có thể bãi nại ở bất cứ giai đoạn hay cấp bực phán xử nào; cũng thế, nguyên đơn cũng như bị đơn có thể từ bỏ tất cả hoặc một vài án từ tố tụng.
 
(2) Ðể có thể bãi nại, người giám hộ và người quản nhiệm của các pháp nhân phải hỏi ý kiến hay được sự thỏa thuận của những người mà luật đòi hỏi để thi hành những hành vi vượt quá giới hạn sự quản trị thông thường.
 
(3) Ðể có hiệu lực, sự bãi nại phải được viết ra giấy tờ và do đương sự hay người thụ ủy của đương sự ký tên; người thụ ủy phải có ủy nhiệm đặc biệt. Sự bãi nại phải được thông báo cho bên kia biết để chấp nhận hay ít là không bị phản đối, và phải được thẩm phán thừa nhận.
 
Ðiều 1525: Một khi được thẩm phán thừa nhận, sự bãi nại sẽ có những hiệu quả như sự thất hiệu của vụ kiện đối với những án từ mà mình từ bỏ. Ai bãi nại thì phải trả những phí tổn về các án từ mà họ từ bỏ.
 
 
THIÊN 4: BẰNG CHỨNG
 
Ðiều 1526: (1) Ai quả quyết thì có trách vụ phải dẫn chứng.
 
(2) Không cần trưng dẫn bằng chứng:
 
1. điều do luật pháp suy đoán;
 
2. sự kiện được một đương sự đối tranh quả quyết và được đối phương thừa nhận, trừ khi luật pháp hay thẩm phán đòi thêm bằng chứng.
 
Ðiều 1527: (1) Ðược phép thu dụng bất cứ bằng chứng nào xem ra hữu ích để làm sáng tỏ vụ kiện, miễn là phải hợp pháp.
 
(2) Nếu đương sự yêu cầu thu nhận bằng chứng đã bị thẩm phán loại bỏ, thì chính thẩm phán sẽ phán định về vấn đề ấy hết sức nhanh chóng.
 
Ðiều 1528: Nếu một đương sự hay một nhân chứng từ chối trình diện để trả lời trước thẩm phán, thì luật cho phép được hỏi cung kể cả nhờ một người giáo dân do thẩm phán chỉ định, hay đòi họ nạp lời khai trước một công chứng viên hay bằng bất cứ phương cách hợp thức nào khác.
 
Ðiều 1529: Trừ khi có lý do hệ trọng, thẩm phán không được bắt đầu thu thập bằng chứng trước khi có sự đối tụng.
 
Chương I: Lời Khai Của Các Ðương Sự
 
Ðiều 1530: Thẩm phán luôn luôn có thể thẩm vấn các đương sự để thấu rõ thêm sự thật; hơn nữa, thẩm phán buộc phải thẩm vấn nếu một đương sự yêu cầu, hay để chứng minh một sự kiện mà công ích đòi hỏi phải được đặt ra khỏi mọi dị nghị.
 
Ðiều 1531: (1) Ðương sự nào được thẩm vấn hợp pháp thì buộc phải trả lời và phải nói tất cả sự thật.
 
(2) Nếu đương sự từ chối không chịu trả lời, thẩm phán sẽ thẩm định xem điều gì có thể suy diễn được từ đó để chứng minh các sự kiện.
 
Ðiều 1532: Trong trường hợp liên quan đến công ích, thẩm phán phải buộc các đương sự thề sẽ nói sự thật, hay ít nữa là đã nói sự thật, trừ khi có lý do hệ trọng khuyên làm thể khác; trong những trường hợp khác, để tùy sự khôn ngoan của thẩm phán.
 
Ðiều 1533: Các đương sự, chưởng lý và bảo hệ có thể trình bày cho thẩm phán những câu hỏi mà dựa theo đó một đương sự có thể bị thẩm vấn.
 
Ðiều 1534: Các quy tắc ấn định ở các điều 1548, triệt 2, số 1, 1552 và 1558-1565 về các nhân chứng, cũng được áp dụng cân xứng trong việc thẩm vấn các đương sự.
 
Ðiều 1535: Sự thú nhận tư pháp là sự xác nhận bất lợi cho mình về một sự kiện liên can tới đối tượng của vụ kiện, do một đương sự viết trên giấy tờ, hay nói miệng, hoặc tự ý hoặc do thẩm phán hỏi cung, trước mặt thẩm phán có thẩm quyền.
 
Ðiều 1536: (1) Sự thú nhận tư pháp của một đương sự, nếu thuộc một vấn đề tư và không liên quan đến công ích, sẽ miễn cho các đương sự khác khỏi phải trưng bằng chứng.
 
(2) Tuy nhiên, trong những vụ án liên quan đến công ích, sự thú nhận tư pháp và các lời khai không có tính cách thú nhận của đương sự có thể có giá trị chứng minh, tùy theo thẩm phán ước định hoàn cảnh của vụ kiện; nhưng chúng không thể có giá trị chứng minh hoàn toàn nếu không được bổ túc bằng những yếu tố vững chắc khác.
 
Ðiều 1537: Ðối với sự thú nhận ngoại tụng được dẫn ra trong lúc tố tụng, thẩm phán phải ước định xem nó có giá trị đến mức độ nào, sau khi cân nhắc tất cả mọi hoàn cảnh.
 
Ðiều 1538: Sự thú nhận hay bất cứ lời khai nào của một đương sự sẽ vô giá trị nếu dựa trên sự sai lầm về sự kiện hay bị cưỡng bách bằng võ lực hay vì sợ hãi trầm trọng.
 
Chương II: Chứng Minh bằng Tài Liệu
 
Ðiều 1539: Sự chứng minh bằng tài liệu, hoặc công hoặc tư, được chấp nhận trong bất cứ vụ kiện nào.
 
Mục 1: Bản chất và giá trị chứng minh của các tài liệu
 
Ðiều 1540: (1) Những tài liệu công của Giáo Hội là những tài liệu được thảo ra do một nhân vật công hành sử chức vụ mình trong Giáo Hội và tuân giữ những thủ tục pháp định.
 
(2) Những tài liệu công của chính quyền là những tài liệu mà luật pháp địa phương nhìn nhận như thế.
 
(3) Tất cả những tài liệu khác đều là tài liệu tư.
 
Ðiều 1541: Trừ khi chứng minh được bằng luận cứ ngược lại và hiển nhiên, các tài liệu công thị thực tất cả những gì được quả quyết trực tiếp và chính yếu trong đó.
 
Ðiều 1542: Tài liệu tư, được một đương sự thừa nhận hoặc được thẩm phán chấp nhận, có hiệu lực chứng minh như một sự thú nhận ngoại tụng, đối kháng lại tác giả hay người ký tên và những người kế quyền; đối với những người đệ tam, chúng có hiệu lực như các lời khai không có tính cách thú nhận theo quy tắc của điều 1536, triệt 2.
 
Ðiều 1543: Nếu các tài liệu có mang nhiều gạch xóa, sửa chữa, phụ thêm, hay hà tì nào khác, thẩm phán sẽ ước định tài liệu ấy có đáng tin hay tin được đến mức nào.
 
Mục 2: Xuất trình tài liệu
 
Ðiều 1544: Các tài liệu không có hiệu lực chứng minh trong vụ kiện nếu không được xuất trình bản chính hoặc bản sao công chứng và được đệ nạp ở văn phòng tòa án, để thẩm phán và đối phương có thể cứu xét.
 
Ðiều 1545: Thẩm phán có thể ra lệnh xuất trình trong vụ kiện một tài liệu chung của cả đôi bên đương sự.
 
Ðiều 1546: (1) Không ai bị bắt buộc phải xuất trình tài liệu, dù là tài liệu chung, trong trường hợp nếu sự tiết lộ tài liệu có thể gây ra thiệt hại nói đến ở điều 1548, triệt 2, số 2, hoặc có thể vi phạm một bí mật phải giữ kín.
 
(2) Tuy nhiên, nếu có thể trích lục ít nữa là một phần của tài liệu và trình bày như một bản sao mà không có sự bất tiện nói trên, thẩm phán có thể ra lệnh xuất trình.
 
Chương III: Các Nhân Chứng Và Sự Làm Chứng
 
Ðiều 1547: Trong bất cứ vụ án nào cũng đều được chấp nhận bằng chứng qua các nhân chứng, dưới sự điều hành của thẩm phán.
 
Ðiều 1548: (1) Các nhân chứng phải nói sự thật khi thẩm phán hỏi cách hợp pháp.
 
(2) Ngoài quy định ở điều 1550, triệt 2, số 2, được chuẩn miễn khỏi trả lời:
 
1. các giáo sĩ, trong những vấn đề mà họ biết được do chức vụ thánh; các thẩm phán nhà nước, các bác sĩ, các nữ hộ sinh, các luật sư, các lục sự, và những người khác phải giữ bí mật nghề nghiệp, kể cả khi họ chỉ giữ vai trò cố vấn, song thuộc phạm vi vấn đề mà họ phải giữ bí mật.
 
2. những người sợ vì sự làm chứng của mình mà chính bản thân, hoặc người phối ngẫu, hoặc những người bà con họ hàng của mình phải bị tiếng xấu, bị đối xử tàn tệ, hay những hiểm họa khác.
 
Mục 1: Những người có thể làm nhân chứng
 
Ðiều 1549: Tất cả mọi người đều có thể làm nhân chứng, nếu không bị luật pháp minh thị gạt bỏ hoặc hoàn toàn hoặc bán phần.
 
Ðiều 1550: (1) Không được nhận làm nhân chứng các vị thành niên dưới mười bốn tuổi và những người suy nhược về tinh thần; tuy nhiên, họ có thể cung khai do án lệnh của thẩm phán tuyên bố sự lợi ích của lời khai của họ.
 
(2) Những người sau đây phải được kể là không có năng cách làm chứng:
 
1. các đương sự trong vụ kiện, hay những người thay mặt các đương sự trước tòa, thẩm phán và những người phụ tá của thẩm phán, luật sư và những người đang hay đã giúp đỡ các đương sự trong cùng một vụ kiện ấy;
 
2. các linh mục trong tất cả những điều gì biết được do bí tích thống hối, dù cả khi hối nhân yêu cầu tiết lộ những điều ấy. Hơn nữa, bất cứ điều gì mà một người nghe được bằng bất cứ cách nào nhân dịp xưng tội, cũng không thể được chấp nhận, dù chỉ như là một điềm chỉ của sự thật.
 
Mục 2: Sự thâu nhận và loại trừ nhân chứng
 
Ðiều 1551: Ðương sự nào đã đưa một nhân chứng ra trước tòa án, có thể khước từ việc chấp cung nhân chứng ấy; nhưng bên đối phương có thể yêu cầu để, mặc dầu vậy, nhân chứng ấy phải được chất vấn.
 
Ðiều 1552: (1) Khi muốn yêu cầu lấy bằng chứng qua các nhân chứng, thì phải nộp cho tòa án tên và địa chỉ của họ.
 
(2) Phải nộp trình, trong hạn kỳ do thẩm phán ấn định, các điểm nào muốn chấp cung các nhân chứng; nếu không, phải kể là lời yêu cầu đã bị bãi bỏ.
 
Ðiều 1553: Thẩm phán có bổn phận hạn chế số lượng quá đáng của các nhân chứng.
 
Ðiều 1554: Trước khi thẩm vấn các nhân chứng, tên của họ phải được thông báo cho các đương sự. Nếu, theo sự ước đoán khôn ngoan của mình, thẩm phán thấy không thể làm như thế mà không khỏi gây khó khăn hệ trọng, thì sự thông báo ấy phải làm ít là trước khi công bố các lời chứng.
 
Ðiều 1555: Ðừng kể quy định ở điều 1550, một đương sự có thể yêu cầu loại trừ một nhân chứng, nếu có lý do chính đáng để loại trừ, trước khi nhân chứng ấy cung khai.
 
Ðiều 1556: Sự triệu hoán nhân chứng ra tòa phải được cáo tri hợp lệ cho nhân chứng bằng án lệnh của thẩm phán.
 
Ðiều 1557: Khi bị triệu hoán ra tòa cách hợp thức, nhân chứng phải trình diện, hay phải báo cho thẩm phán biết lý do vắng mặt của mình.
 
Mục 3: Sự thẩm vấn nhân chứng
 
Ðiều 1558: (1) Nhân chứng phải được thẩm vấn tại chính trụ sở tòa án, trừ khi thẩm phán định cách khác.
 
(2) Các Hồng Y, các Thượng Phụ, các Giám Mục, và những người theo luật quốc gia được hưởng đặc ân tương tự, sẽ được thẩm vấn tại nơi mà chính các người ấy lựa chọn.
 
(3) Thẩm phán sẽ quyết định nơi để chấp cung những người vì xa xôi, vì đau bệnh, hay vì ngăn trở nào khác mà không thể hay khó đến trụ sở tòa án, đừng kể những quy định ở các điều 1418 và 1469, triệt 2.
 
Ðiều 1559: Các đương sự không được tham dự vào việc chấp cung các nhân chứng, trừ khi thẩm phán quyết định cho vào tham dự, cách riêng khi là vấn đề thuộc tư ích. Tuy nhiên, các luật sư hay các người thụ ủy của họ có thể được tham dự, trừ khi vì những hoàn cảnh sự vật và nhân sự, thẩm phán quyết định phải tiến hành cách kín đáo.
 
Ðiều 1560: (1) Các nhân chứng phải được thẩm vấn riêng từng người một.
 
(2) Nếu các nhân chứng bất đồng ý kiến với nhau hay với một đương sự về một vấn đề quan trọng, thẩm phán có thể cho những người ấy gặp nhau, tức là đối chất với nhau, nhưng phải làm hết sức để loại bỏ sự cãi cọ và gương xấu.
 
Ðiều 1561: Sự thẩm vấn nhân chứng được thực hiện do thẩm phán, hay do người được thẩm phán ủy nhiệm, hay do dự thẩm và phải được lục sự tham dự. Vì thế, trừ khi luật địa phương định cách khác, nếu các đương sự hay chưởng lý hay bảo vệ hay các luật sư hiện diện trong cuộc thẩm vấn có điều gì muốn hỏi nhân chứng, thì không được hỏi thẳng nhân chứng, nhưng phải đề nghị câu hỏi lên thẩm phán hay người thay thế thẩm phán, để chính người này hỏi lại nhân chứng.
 
Ðiều 1562: (1) Thẩm phán phải nhắc nhở cho nhân chứng nghĩa vụ nặng phải nói lên tất cả sự thật và chỉ nói sự thật mà thôi.
 
(2) Thẩm phán sẽ buộc nhân chứng tuyên thệ chiếu theo điều 1532; nhưng nếu nhân chứng từ chối không thề, nhân chứng vẫn được cung khai mà không phải thề.
 
Ðiều 1563: Trước tiên, thẩm phán phải kiểm điểm lý lịch của nhân chứng; hỏi nhân chứng có tương quan nào với các đương sự, và khi đặt những câu hỏi riêng biệt liên hệ đến các vụ kiện, cũng phải hỏi nhân chứng bởi đâu họ biết được, và vào lúc nào họ đã biết được điều mà họ quả quyết.
 
Ðiều 1564: Các câu hỏi phải ngắn gọn, vừa hợp với tầm hiểu biết của người được thẩm vấn, không bao hàm một lúc nhiều vấn đề, không quanh co, không xảo quyệt, không gợi ra câu trả lời, không có tính cách khiêu khích, và phải liên quan đến các vụ kiện đang được cứu xét.
 
Ðiều 1565: (1) Những câu hỏi sẽ không được thông báo trước cho các nhân chứng.
 
(2) Tuy nhiên, nếu các sự kiện phải được làm chứng rất xa hồi ký đến nỗi nếu không gợi lại trước thì sẽ không quả quyết chắc chắn được, thì thẩm phán có thể báo trước cho nhân chứng một vài điểm, nếu nhận thấy điều đó sẽ không có gì nguy hại.
 
Ðiều 1566: Nhân chứng phải cung khai miệng, không được đọc điều đã viết sẵn, trừ khi phải nói đến số mục hay tính toán; trong trường hợp này, họ được phép tham khảo những điều ghi chú mà họ mang theo.
 
Ðiều 1567: (1) Các câu trả lời phải được lục sự ghi chép ngay và phải ghi nguyên văn lời chứng, ít nữa là những điều liên hệ trực tiếp đến vấn đề phán xử.
 
(2) Có thể cho phép xử dụng máy ghi âm, miễn là sau đó các lời đáp phải được ghi chép lại trên giấy tờ, và nếu có thể được, phải được những người đã cung khai ký tên.
 
Ðiều 1568: Lục sự phải ghi vào các án từ: lời thề đã được đọc, được chuẩn hay bị từ chối; sự có mặt của các đương sự và của những người đệ tam; các câu hỏi được thêm vào chiếu theo chức vụ; và nói chung, tất cả những gì đáng ghi nhớ trong khi xảy ra cuộc thẩm vấn các nhân chứng.
 
Ðiều 1569: (1) Sau khi thẩm vấn xong, phải đọc lại cho nhân chứng nghe những điều họ cung khai mà lục sự đã ghi, hay cho họ nghe lại những điều họ cung khai đã được ghi âm; và phải cho nhân chứng được quyền thêm, bỏ, sửa chữa, và thay đổi các lời đã khai.

(2) Sau cùng, nhân chứng, thẩm phán và lục sự phải ký tên vào án từ.
 
Ðiều 1570: Trước khi công bố các án từ hoặc lời chứng, các nhân chứng, mặc dù đã được thẩm vấn rồi, cũng có thể được mời ra để thẩm vấn thêm, hoặc do lời yêu cầu của một đương sự, hoặc chiếu theo chức vụ, nếu thẩm phán thấy cần thiết hay hữu ích, miễn là không có nguy cơ nào về việc thông đồng hay hối lộ.
 
Ðiều 1571: Tùy theo sự ước lượng công bình của thẩm phán, các nhân chứng phải được hoàn lại các chi phí họ đã tốn, hoặc lợi đắc mà họ đã mất vì việc ra tòa để làm chứng.
 
Mục 4: Tín lực của các lời chứng
 
Ðiều 1572: Trong việc thẩm định các lời chứng, thẩm phán phải cứu xét những điều sau đây, sau khi đòi hỏi những chứng thư nếu cần:
 
1. địa vị và sự thành thực của nhân chứng;
 
2. nhân chứng khai điều chính mình biết, nhất là do tự mắt thấy tai nghe, hay chỉ là điều suy tưởng, hoặc dựa theo dư luận, hay nghe những người khác kể lại;
 
3. nhân chứng có kiên trì, chắc chắn và mạch lạc với mình hay không; hay là năng thay đổi, không chắc chắn hay ngập ngừng;
 
4. những lời chứng đã cung khai có được các nhân chứng khác hỗ trợ, hay được xác nhận bằng những yếu tố minh chứng khác hay không.
 
Ðiều 1573: Sự cung khai của một nhân chứng duy nhất không thể có tín lực hoàn toàn, đừng kể khi người ấy là một nhân chứng có tư cách chuyên môn và cung khai về những sự việc đã được chính họ thực hiện do chức vụ, hay khi các hoàn cảnh sự vật và nhân sự khuyến dẫn cách khác.
 
Chương IV: Các Giám Ðịnh Viên
 
Ðiều 1574: Phải nhờ đến các giám định viên giúp đỡ mỗi khi luật pháp hay thẩm phán đòi hỏi sự khảo sát và ý kiến của họ, dựa trên các quy tắc của kỹ thuật và khoa học của họ, để chứng minh một sự kiện hay để biết bản tính thật của một sự vật.
 
Ðiều 1575: Thẩm phán có quyền bổ dụng các giám định viên sau khi nghe ý kiến hay đề nghị của các đương sự; hoặc, nếu có, thu nạp bản phúc trình đã được các giám định viên thảo ra.
 
Ðiều 1576: Các giám định viên có thể bị loại trừ hay bị cáo tị vì cùng những lý do như các nhân chứng.
 
Ðiều 1577: (1) Căn cứ trên những gì thu thập được từ các đương sự tranh tụng, thẩm phán phải xác định, bằng một án lệnh, từng điểm một về những gì mà các giám định viên phải cho biết ý kiến.
 
(2) Phải trao cho giám định viên các án từ của vụ kiện và những hồ sơ và các tài liệu khác mà họ có thể cần để chu toàn nhiệm vụ cách đúng đắn và trung thực.
 
(3) Sau khi bàn hỏi với các giám định viên, thẩm phán phải ấn định một thời hạn để hoàn tất việc khảo sát và đệ nộp bản phúc trình.
 
Ðiều 1578: (1) Mỗi giám định viên phải làm một bản phúc trình riêng rẽ trừ khi thẩm phán ra lệnh tất cả phải làm chung một bản, và mỗi người phải ký tên vào; trong trường hợp này, nếu có những ý kiến xung khắc, thì phải ghi chú cẩn thận.
 
(2) Các giám định viên phải chỉ rõ do tài liệu nào hay do những phương thức thích hợp nào mà họ đã kiểm nhận hình dạng của những người, những sự vật và nơi chốn; cũng phải chỉ rõ họ đã dùng đường lối và tiêu chuẩn nào để chu tất nhiệm vụ được giao phó, và nhất là phải chỉ rõ họ đã dựa trên luận cứ nào để đi đến kết luận.
 
(3) Nếu cần, giám định viên có thể được thẩm phán gọi đến để giải thích thêm.
 
Ðiều 1579: (1) Thẩm phán phải cân nhắc cẩn thận không những các kết luận của các giám định viên, dù là kết quả đồng nhất, mà cả các hoàn cảnh khác của vụ kiện nữa.
 
(2) Khi trình bày lý do quyết định của mình, thẩm phán phải xác định những luận cứ nào đã đưa mình đến việc chấp nhận hay loại bỏ các kết luận của các giám định viên.
 
Ðiều 1580: Các giám định viên phải được trả phí tổn và thù lao do thẩm phán ấn định cách hợp lẽ và công bình, cũng như phải dựa theo luật địa phương.
 
Ðiều 1581: (1) Các đương sự có thể chọn giám định viên tư, nhưng phải được thẩm phán chấp thuận.
 
(2) Sau khi đã được thẩm phán thừa nhận, các giám định viên ấy có thể khảo sát các án từ của vụ kiện, tùy theo mức độ cần thiết, và theo dõi diễn tiến của việc giám định; tuy nhiên, họ luôn luôn có thể nộp bản phúc trình riêng của mình.
 
Chương V: Lý Khám Trường Sở
 
Ðiều 1582: Nếu để tra vấn một vụ kiện, thẩm phán thấy cần phải đi đến tận một nơi hay cần khám sát một vật nào, thẩm phán sẽ quyết định bằng một án lệnh trong đó kê khai sơ lược, sau khi đã hỏi ý kiến của các đương sự, những gì phải khám sát.
 
Ðiều 1583: Sau khi khám sát xong, một biên bản phải được thành lập.
 
Chương VI: Những Suy Ðoán
 
Ðiều 1584: Sự suy đoán là phỏng đoán hữu lý về một việc không chắc chắn. Suy đoán pháp định là suy đoán đã được chính luật pháp ấn định; suy đoán nhân định là suy đoán của thẩm phán.
 
Ðiều 1585: Người nào có suy đoán pháp định thuận lợi về phía mình thì được miễn khỏi phải trưng bằng chứng; trách vụ dẫn chứng thuộc về đối phương.
 
Ðiều 1586: Thẩm phán không được đưa ra những suy đoán mà không được luật pháp ấn định nếu không dựa trên một sự kiện chắc chắn và nhất định, trực tiếp liên quan đến vấn đề đang tranh chấp.
 
 
THIÊN 5: NHỮNG VỤ KIỆN PHỤ ÐỜI
 
Ðiều 1587: Vụ kiện phụ đới xảy ra khi nào, sau khi đã có lệnh triệu hoán, một vấn đề được đặt ra, tuy dù không được trình bày minh thị trong đơn khởi tố, nhưng rất liên hệ đến vụ kiện đến nỗi thường thường phải giải quyết vấn đề đó trước vấn đề chính.
 
Ðiều 1588: Vụ kiện phụ đới được nêu lên bằng giấy tờ hay bằng miệng trước mặt thẩm phán có thẩm quyền xử vụ kiện chính, và phải vạch rõ mối liên hệ giữa nó và vụ kiện chính.
 
Ðiều 1589: (1) Sau khi nhận được thỉnh cầu và nghe ý kiến của các đương sự, thẩm phán phải quyết định thật nhanh chóng xem vấn đề phụ đới được đặt ra có nền tảng và liên hệ đến vụ kiện chính hay không, hay phải bác bỏ nó ngay từ đầu. Nếu vấn đề phụ đới được chấp nhận, thẩm phán phải xét vấn đề can hệ đến mức độ cần phải giải quyết bằng án trung phán hay bằng án lệnh.
 
(2) Nếu xét rằng vấn đề phụ đới không cần được giải quyết trước án chung quyết, thẩm phán phải ấn định là sẽ lưu ý đến nó trong khi xét xử vụ kiện chính.
 
Ðiều 1590: (1) Nếu vấn đề phụ đới phải được giải quyết bằng một bản án, thì phải tuân giữ các quy tắc nói về thủ tục hộ sự khẩu biện, trừ khi sự hệ trọng của vấn đề đòi thẩm phán phải làm cách khác.
 
(2) Nếu vấn đề phụ đới phải được giải quyết bằng án lệnh, tòa án có thể ủy thác vấn đề cho dự thẩm hay chánh án.
 
Ðiều 1591: Bao lâu vụ kiện chính chưa kết thúc, thẩm phán hay tòa án, vì một lý do chính đáng, có thể thu hồi hay sửa đổi án lệnh hay án trung phán, hoặc do lời yêu cầu của một đương sự, hoặc chiểu chức vụ, sau khi nghe ý kiến của các đương sự.
 
Chương I: Ðương Sự Không Ra Trình Diện
 
Ðiều 1592: (1) Nếu bị đơn được đòi ra tòa mà không ra trình diện, cũng không cáo lỗi cách hợp thức về sự vắng mặt của mình, hoặc không trả lời theo như quy tắc của điều 1507, triệt 1, thì thẩm phán phải tuyên bố bị đơn khuyết tịch, và phải quyết định tiến hành thủ tục cho đến án chung quyết và thi hành án văn, miễn là tuân hành những điều luật định.
 
(2) Trước khi ban hành án lệnh dự liệu ở triệt 1, thẩm phán phải biết chắc rằng lệnh triệu hoán đã được thi hành hợp lệ và đã tới tay bị đơn trong thời gian hữu ích; nếu cần thì ra lệnh triệu hoán một lần nữa.
 
Ðiều 1593: (1) Nếu sau đó, bị đơn ra trình diện hay gởi câu trả lời trước khi phán xử vụ kiện, bị đơn có thể trưng dẫn các kết luận và bằng chứng, miễn là phải tôn trọng quy định của điều 1600; tuy nhiên, thẩm phán phải tránh chủ tâm kéo dài vụ kiện quá lâu và vô ích.
 
(2) Mặc dù đã không xuất đình, cũng không trả lời trước khi phán xử vụ kiện, bị đơn vẫn có thể kháng nghị án văn. Nếu chứng minh được rằng mình bị ngăn trở hợp lệ và đã không trình diện không phải do lỗi của mình, bị đơn có thể xử dụng đến đới tranh vô hiệu.
 
Ðiều 1594: Nếu nguyên đơn không trình diện vào ngày và giờ ấn định cho cuộc đối tụng và cũng không cáo lỗi thích đáng:
 
1. thẩm phán cho đòi nguyên đơn một lần nữa;
 
2. nếu nguyên đơn không tuân hành lệnh triệu hoán mới, nguyên đơn được suy đoán là bãi nại, chiếu theo quy tắc của các điều 1524-1525;
 
3. nếu sau đó nguyên đơn muốn can dự vào vụ kiện thì phải giữ điều 1593.
 
Ðiều 1595: (1) Ðương sự nào khuyết tịch, dù là nguyên đơn hay bị đơn, mà không minh chứng được là mình bị ngăn trở chính đáng, phải buộc trả phí tổn đã gây ra vì chính sự khuyết tịch của mình, cũng như, nếu cần, phải bồi thường thiệt hại cho đương sự đối phương.
 
(2) Nếu cả nguyên đơn lẫn bị đơn đều khuyết tịch, họ phải liên đới trả tất cả án phí.
 
Chương II: Sự Can Thiệp Của Ðệ Tam Nhân Vào Vụ Kiện
 
Ðiều 1596: (1) Người nào có lợi ích trong một vụ kiện thì được phép can dự vào vụ kiện, ở bất cứ giai đoạn nào của cuộc kiện tụng, hoặc với tư cách là đương sự bênh vực quyền lợi của mình, hoặc là phụ trợ để giúp đỡ một đương sự đang tranh tụng.
 
(2) Tuy nhiên, để được chấp nhập, người ấy phải đệ đơn lên thẩm phán trước khi kết thúc sự thẩm cứu; trong đơn phải trình bày vắn tắt quyền của mình được phép can dự.
 
(3) Người nào can dự vào vụ kiện sẽ được chấp nhận ở tình trạng hiện hành của vụ kiện; người ấy được cấp một hạn kỳ ngắn và thất hiệu để trưng các bằng chứng, nếu vụ kiện đã đến giai đoạn dẫn chứng.
 
Ðiều 1597: Nếu nhận thấy sự can thiệp của một đệ tam nhân là cần thiết, thẩm phán phải gọi người đó ra tòa, sau khi nghe ý kiến các đương sự.
 
THIÊN 6: SỰ CÔNG BỐ ÁN TỪ, SỰ KẾT THÚC THẨM CỨU VÀ SỰ TRANH LUẬN
 
Ðiều 1598: (1) Sau khi đã thu thập các bằng chứng, thẩm phán phải ra án lệnh cho phép các đương sự và luật sư của họ xem xét các án từ mà họ chưa biết, tại văn phòng của tòa án, nếu không thì sẽ vô hiệu. Nếu các luật sư yêu cầu, có thể trao cho họ bản văn án từ. Tuy nhiên, trong những vụ án liên quan đến công ích, để tránh các nguy hiểm rất trầm trọng, thẩm phán có thể quyết định một vài án từ không được tỏ cho ai biết cả, miễn là phải ý tứ để quyền bào chữa luôn luôn được giữ toàn vẹn.
 
(2) Ðể bổ túc bằng chứng, các đương sự có thể trình cho thẩm phán thêm các bằng chứng khác. Sau khi đã thu nhận chúng, nếu thẩm phán nhận thấy cần, có thể ra một án lệnh nữa như đã nói ở triệt 1.
 
Ðiều 1599: (1) Khi tất cả những gì liên quan đến việc trưng bằng chứng đã chu tất, thì đến giai đoạn kết thúc thẩm cứu.
 
(2) Sự kết thúc này xảy ra khi các đương sự tuyên bố họ không còn gì khác nữa để thêm vào, hay thời hạn hữu ích do thẩm phán ấn định để trưng bằng chứng đã hết, hay thẩm phán tuyên bố vụ kiện đã được thẩm cứu tạm đủ.
 
(3) Dù sự kết thúc xảy ra dưới hình thức nào đi nữa, thẩm phán phải ra một án lệnh tuyên bố kết thúc sự thẩm cứu.
 
Ðiều 1600: (1) Khi đã kết thúc sự thẩm cứu, thẩm phán vẫn còn có thể triệu tập chính các nhân chứng đã gọi hay các nhân chứng khác, hoặc đòi thêm những bằng chứng khác mà trước đây chưa đòi, nhưng chỉ giới hạn trong những trường hợp sau đây:
 
1. trong những vụ chỉ liên quan đến ích lợi tư riêng của các đương sự, nếu tất cả các đương sự đều đồng ý;
 
2. trong những vụ kiện khác, sau khi đã nghe ý kiến các đương sự, và miễn là có lý do trầm trọng và tránh mọi nguy hiểm gian lận hoặc hối lộ;
 
3. trong hết mọi vụ kiện, khi nào nhận thấy nếu không nhận thêm bằng chứng mới thì bản án sẽ bất công vì lý do nói ở điều 1645, triệt 2, số 1-3.
 
(2) Tuy nhiên, thẩm phán có thể ra lệnh hay cho phép trình bày một tài liệu đã không được trình bày trước không tại lỗi của đương sự liên hệ.
 
(3) Các bằng chứng mới phải được công bố theo điều 1598, triệt 1.
 
Ðiều 1601: Sau khi đã kết thúc thẩm cứu, thẩm phán phải ấn định một hạn kỳ thích hợp để trình bày những lời biện hộ và những nhận xét.
 
Ðiều 1602: (1) Những lời biện hộ và những nhận xét phải được viết trên giấy tờ, trừ khi thẩm phán, với sự đồng ý của các đương sự, xét rằng chỉ cần một cuộc tranh biện trong một phiên tòa là đủ.
 
(2) Những lời biện hộ và các tài liệu chính, nếu muốn được ấn hành, phải có phép trước của thẩm phán, miễn là bảo vệ nghĩa vụ giữ bí mật nếu có.
 
(3) Về tầm độ dài ngắn của lời biện hộ, về số lượng các bản in, hay về các chi tiết khác, cần phải theo quy luật của tòa án.
 
Ðiều 1603: (1) Sau khi đã trao đổi các lời biện hộ và những nhận xét, mỗi đương sự được quyền trả lời trong thời gian ngắn do thẩm phán ấn định.
 
(2) Quyền này chỉ được ban cho các đương sự một lần mà thôi, trừ khi vì lý do hệ trọng thẩm phán thấy cần phải cho một lần thứ hai nữa; trong trường hợp ấy, nếu đã ban cho một đương sự này, thì đương sự kia cũng được hưởng.
 
(3) Chưởng lý và bảo vệ có quyền đối đáp một lần nữa các câu trả lời của các đương sự.
 
Ðiều 1604: (1) Tuyệt đối cấm các đương sự, các luật sư hay những người đệ tam cung cấp cho thẩm phán những sự thông tin khác không nằm trong án từ vụ kiện.
 
(2) Nếu sự tranh luận vụ kiện đã được thực hiện trên giấy tờ, thẩm phán có thể ấn định một cuộc tranh luận khẩu biện trong một phiên tòa, để làm sáng tỏ một vài vấn đề.
 
Ðiều 1605: Trong một cuộc tranh luận khẩu biện nói ở điều 1602, triệt 1 và 1604, triệt 2, lục sự phải có mặt để nếu thẩm phán ra lệnh hay một đương sự yêu cầu và thẩm phán đồng ý, có thể ghi tức khắc vào biên bản những gì đã được bàn cãi và kết luận.
 
Ðiều 1606: Nếu các đương sự xao lãng không lo chuẩn bị biện hộ trong thời gian hữu ích, hay họ phó thác cho sự hiểu biết và lương tâm của thẩm phán, và, nếu thẩm phán nhận thấy qua các án từ và bằng chứng là vấn đề đã được cứu xét cặn kẽ, thì thẩm phán có thể tuyên án lập tức, sau khi đã hỏi nhận xét của chưởng lý và của bảo hệ, nếu họ đã can thiệp vào sự tố tụng.
 
 
THIÊN 7: SỰ TUYÊN ÁN
 
Ðiều 1607: Một vụ kiện đã được cứu xét bằng hình thức tư pháp, nếu là vụ án chính, phải được thẩm phán xử bằng án chung quyết; nếu là vụ án phụ đới thì bằng án trung phán, miễn là giữ quy định của điều 1589, triệt 1.
 
Ðiều 1608: (1) Ðể tuyên bố bất cứ một án nào, thẩm phán phải có sự xác tín luân lý về vấn đề phán xử.
 
(2) Thẩm phán phải rút được sự xác tín này từ các án từ và các bằng chứng.
 
(3) Tuy nhiên, thẩm phán phải thẩm định các bằng chứng theo lương tâm của mình, đừng kể trường hợp mà luật pháp đã quy định giá trị của một vài thứ bằng chứng.
 
(4) Nếu thẩm phán không nắm được sự xác tín, thì phải tuyên bố rõ rằng quyền lợi của nguyên đơn không rõ rệt và phải giải trừ bị đơn, trừ khi là một vụ kiện được hưởng đặc ân của luật pháp, vì trong những trường hợp này thẩm phán phải tuyên bố thuận lợi cho vụ kiện.
 
Ðiều 1609: (1) Trong tòa án tập đoàn, chánh án phải chỉ định ngày và giờ để các thẩm phán hội lại thảo luận và, trừ khi có lý do đặc biệt, cuộc hội thảo phải được diễn ra tại trụ sở tòa án.
 
(2) Ðến ngày đã được ấn định, mỗi thẩm phán phải mang đến kết-luận-trạng của mình về nội dụng vụ kiện, cùng với những lý lẽ về pháp lý hay về sự kiện đưa đến kết luận; các kết-luận-trạng sẽ được kèm vào các án từ vụ kiện và phải được giữ bí mật.
 
(3) Sau khi kêu cầu danh Thiên Chúa, mỗi thẩm phán sẽ lần lượt trình bày kết luận của mình, dựa theo thứ tự ưu tiên tuy luôn luôn phải bắt đầu từ người có nhiệm vụ tường trình hay phúc trình viên của vụ kiện; tiếp đó, cuộc bàn thảo bắt đầu dưới sự hướng dẫn của chánh án, nhất là để thỏa thuận với nhau về những điều phải ấn định trong phần chủ văn của bản án.
 
(4) Trong cuộc thảo luận, mỗi người được phép rút lại kết luận trước đây của mình. Tuy nhiên, thẩm phán nào không muốn theo quyết định của những người khác có thể yêu cầu, nếu có kháng cáo, phải chuyển lên tòa án thượng cấp kết luận của mình.
 
(5) Nếu trong buổi thảo luận đầu tiên, các thẩm phán không muốn hay không thể đi đến phán xử, thì có thể dời sự quyết định đến một buổi họp khác, nhưng không quá một tuần, trừ khi phải bổ túc thẩm cứu vụ án chiếu theo quy tắc của điều 1600.
 
Ðiều 1610: (1) Nếu là thẩm phán duy nhất, chính thẩm phán phải thảo án văn.
 
(2) Trong tòa án tập đoàn, thẩm phán phúc trình viên phải thảo bản án, dựa trên các lý lẽ mà mỗi thẩm phán đã dẫn nại trong buổi thảo luận, trừ khi đa số thẩm phán đã quyết định phải lấy những lý lẽ nào rồi; kế đó, án văn phải được trao cho từng thẩm phán để được chấp thuận.
 
(3) Án văn phải được ban hành trong vòng một tháng từ ngày tuyên án, trừ khi, trong tòa án tập đoàn, vì lý do hệ trọng, các thẩm phán đã ấn định một thời hạn dài hơn.
 
Ðiều 1611: Án văn phải:
 
1. phán xử cuộc tranh biện đã diễn ra trước tòa, đưa ra phúc đáp thỏa đáng cho từng nghi vấn;
 
2. ấn định các nghĩa vụ của các đương sự xuất phát từ sự phán xử và cách thức thi hành các nghĩa vụ đó;
 
3. trình bày những lý lẽ, tức là những lý do về pháp lý và về sự kiện mà chủ văn bản án dựa vào;
 
4. ấn định án phí.
 
Ðiều 1612: (1) Sau khi kêu cầu danh Thiên Chúa, án văn phải ghi rõ lần lượt: danh tánh thẩm phán hoặc tòa án; tên họ và cư sở của nguyên đơn, bị đơn, người thụ ủy; chưởng lý và bảo hệ, nếu họ đã can dự vào vụ án.
 
(2) Sau đó phải trình bày sơ lược sự kiện chính với các kết luận của các đương sự và công thức của các nghi vấn.
 
(3) Tiếp đến là phần chủ văn bản án, sau khi đưa ra những lý lẽ mà chủ văn bản án dựa vào.
 
(4) Sau cùng, phải ghi rõ ngày, tháng, năm và nơi ban hành án văn, và phải có chữ ký của thẩm phán hay, nếu là tòa án tập đoàn, của tất cả các thẩm phán và của lục sự.
 
Ðiều 1613: Những quy luật đã nói trên đây về án chung quyết cũng phải được áp dụng cho án trung phán.
 
Ðiều 1614: Án văn phải được công bố càng sớm càng hay, và phải chỉ rõ những phương cách mà án văn có thể bị kháng nghị. Cho đến lúc được công bố, án văn không có hiệu lực gì hết, cho dù phần chủ văn đã được thẩm phán cho phép cáo tri cho các đương sự.
 
Ðiều 1615: Sự công bố hay cáo tri án văn có thể được thực hiện bằng cách hoặc trao một bản sao tận tay các đương sự, hay cho các người thụ ủy của họ, hoặc gởi cho họ bản sao ấy theo cách thức nói ở điều 1509.
 
Ðiều 1616: (1) Nếu trong bản văn của án văn có sai lầm về số mục hay sai lầm về vật chất khi sao chép phần chủ văn, hay phần trình bày các sự kiện hay lời yêu cầu của các đương sự, hay quên sót những gì mà điều 1612, triệt 4 đòi buộc, thì án văn phải được sửa chữa hay bổ túc do chính tòa án đã tuyên án, do lời yêu cầu của một đương sự hay chiếu theo chức vụ, nhưng luôn luôn phải hỏi ý các đương sự trước, và bằng một án lệnh thêm vào cuối án văn.
 
(2) Nếu có một đương sự phản kháng, vấn đề phụ đới phải được phán xử bằng án lệnh.
 
Ðiều 1617: Ngoài án văn ra, tất cả những lời tuyên bố khác của thẩm phán đều là án lệnh, và, trừ khi chỉ có tính cách thuần túy thủ tục, chúng sẽ không có hiệu lực nào nếu không trình bày ít là cách sơ lược các lý do, hay quy chiếu những lý do đã được diễn tả trong một án từ khác.
 
Ðiều 1618: Án trung phán hay án lệnh sẽ có giá trị như án chung quyết, nếu đối với ít là một đương sự, nó ngăn cản sự phán xử hay kết thúc chính sự phán xử hay một cấp bực phán xử.

 
THIÊN 8: SỰ KHÁNG NGHỊ ÁN VĂN
 
Chương I: Ðới Tranh Về Sự Vô Hiệu Của Án Văn
 
Ðiều 1619: Tuy vẫn tôn trọng quy định của các điều 1622 và 1623, sự vô hiệu của các án từ do luật thực tại ấn định, nếu được đương sự đề khởi đới tranh biết mà không nêu lên cho thẩm phán trước khi tuyên án, thì phải kể là được bao yểm do chính án văn, miễn là vụ kiện chỉ liên hệ đến ích lợi các tư nhân.
 
Ðiều 1620: Án văn sẽ bị vô hiệu bất khả bao yểm nếu:
 
1. được ban hành do một thẩm phán vô thẩm quyền tuyệt đối;
 
2. được ban hành do một người không có quyền tài thẩm trong tòa án đã xử vụ kiện;
 
3. thẩm phán ban hành án văn do ảnh hưởng của bạo lực hay sợ hãi trầm trọng;
 
4. sự tố tụng tiến hành mà không có đơn thỉnh nguyện tư pháp, như nói ở điều 1501, hoặc không chống lại một bị đơn nào hết;
 
5. được ban hành giữa các đương sự mà ít là một bên trong các đương sự ấy không có năng cách ra trước tòa án;
 
6. một người đã hành động nhân danh một người khác nhưng không được ủy nhiệm hợp lệ;
 
7. quyền biện hộ đã bị từ chối đối với bên này hay bên kia của các đương sự;
 
8. sự tranh tụng không được phân giải, dù chỉ là một phần.
 
Ðiều 1621: Ðới tranh về sự vô hiệu, nói ở điều 1620, có thể được nêu lên như khước biện không bị giới hạn thời gian, hoặc như tố quyền trước thẩm phán đã tuyên án, trong hạn mười năm từ ngày công bố án văn.
 
Ðiều 1622: Án văn bị vô hiệu có thể bao yểm nếu:
 
1. được ban hành do một số không hợp lệ của các thẩm phán, trái với quy định của điều 1425, triệt 1;
 
2. không viện dẫn các lý lẽ hay lý do quyết định;
 
3. thiếu chữ ký theo như luật đòi hỏi;
 
4. không ghi năm, tháng, ngày và nơi ban hành;
 
5. dựa trên một án từ tư pháp vô hiệu, và sự vô hiệu không được bao yểm chiếu theo quy tắc của điều 1619;
 
6. được ban hành chống lại một đương sự vắng mặt hợp lệ, chiếu theo điều 1593, triệt 2.
 
Ðiều 1623: Ðới tranh vô hiệu trong những trường hợp nói ở điều 1622 có thể được nêu lên trong hạn ba tháng kể từ khi công bố án văn.
 
Ðiều 1624: Chính thẩm phán đã tuyên án phải cứu xét đới tranh về sự vô hiệu; nếu đương sự sợ rằng thẩm phán ấy, vì đã gây ra án văn không bị kháng nghị vì đới tranh về vô hieêu, sẽ có thiên kiến và đáng bị hồ nghi, thì đương sự có thể đòi hỏi để được thế bởi một thẩm phán khác chiếu theo quy tắc của điều 1450.
 
Ðiều 1625: Ðới tranh về sự vô hiệu có thể được đệ nộp chung với kháng cáo, trong thời hạn dự liệu cho sự kháng cáo.
 
Ðiều 1626: (1) Ðới tranh về sự vô hiệu có thể được nêu lên không những do các đương sự nghĩ mình bị thiệt hại, mà còn do chưởng lý hay bảo hệ mỗi khi họ có quyền can dự.
 
(2) Thẩm phán có thể chiểu chức vụ thâu hồi hay cải chính án văn vô hiệu do mình ban hành trong hạn kỳ pháp định nói ở điều 1623, trừ khi trong thời gian đó kháng cáo được đệ nộp chung với đới tranh về sự vô hiệu, hay sự vô hiệu đã được bao yểm do sự mãn hạn kỳ dự liệu ở điều 1623.
 
Ðiều 1627: Các vụ xử đới tranh về sự vô hiệu có thể được cứu xét theo các quy tắc về tố tụng hộ sự khẩu biện.
 
Chương II: Sự Kháng Cáo
 
Ðiều 1628: Ðương sự nào nghĩ mình bị thiệt hại bởi một án văn, cũng như chưởng lý và bảo hệ trong những vụ đòi hỏi sự có mặt của họ, đều có quyền kháng cáo lên thẩm phán thượng cấp, miễn là giữ quy định của điều 1629.
 
Ðiều 1629: Không được kháng cáo chống lại:
 
1. một án văn của chính Ðức Thánh Cha hay của Tối Cao Pháp Viện Tòa Thánh;
 
2. một án văn vô hiệu, trừ khi sự kháng cáo được nộp chung với đới tranh về sự vô hiệu chiếu theo quy tắc của điều 1625;
 
3. án văn đã trở thành vấn đề quyết tụng;
 
4. án lệnh của thẩm phán hay án văn trung phán mà không có hiệu lực của án chung quyết, trừ khi kháng cáo được nộp chung với kháng cáo chống lại án văn chung quyết;
 
5. án văn hay án lệnh trong một vụ kiện được luật pháp ấn định phải phán xử trong hạn kỳ thật khẩn cấp.
 
Ðiều 1630: (1) Sự kháng cáo phải được nộp cho thẩm phán đã ban hành án văn trong thời hạn thất hiệu là mười lăm ngày kể từ khi án văn được công bố.
 
(2) Nếu sự kháng cáo được trình miệng, lục sự phải ghi ra trên giấy tờ trước mặt người kháng cáo.
 
Ðiều 1631: Nếu xảy ra một vấn đề quyền kháng cáo, thì tòa án kháng cáo phải cứu xét vấn đề thật khẩn cấp theo các quy tắc của tố tụng khẩu biện.
 
Ðiều 1632: (1) Nếu đơn kháng cáo không nói rõ muốn lên tòa án nào, thì phải suy đoán là kháng cáo đến tòa án được nói ở các điều 1438 và 1439.
 
(2) Nếu đương sự đối phương kháng cáo lên một tòa án kháng cáo khác, thì tòa án nào cao cấp hơn sẽ cứu xét vụ án, miễn là giữ điều 1415.
 
Ðiều 1633: Sự kháng cáo phải được tiếp diễn trước thẩm phán tòa kháng cáo trong hạn một tháng từ ngày nộp kháng cáo, trừ khi thẩm phán tòa sơ thẩm đã ấn định một thời hạn dài hơn cho đương sự theo đuổi kháng cáo.
 
Ðiều 1634: (1) Ðể tiếp diễn sự kháng cáo, điều kiện cần và đủ là đương sự kêu nài sự can thiệp của thẩm phán thượng cấp để xin sửa đổi bản án bị kháng nghị, kèm theo bản sao của án văn này và nói rõ những lý do kháng cáo.
 
(2) Nếu đương sự không nhận được từ tòa sơ thẩm bản sao của án văn bị kháng nghị trong thời hạn hữu ích, thì các hạn kỳ không lưu thông; sự ngăn trở phải được cho thẩm phán tòa kháng cáo biết; thẩm phán tòa kháng cáo sẽ dùng mệnh lệnh truyền thẩm phán tòa sơ thẩm phải chu toàn nghĩa vụ mau lẹ.
 
(3) Trong khi đó, thẩm phán tòa sơ thẩm phải gởi đến thẩm phán tòa kháng cáo các án từ chiếu theo quy tắc của điều 1474.
 
Ðiều 1635: Khi đã mãn thời hạn hữu ích để kháng cáo hoặc trước thẩm phán tòa sơ thẩm hoặc trước thẩm phán tòa kháng cáo, thì sự kháng cáo được kể là đã bị khước từ.
 
Ðiều 1636: (1) Người kháng cáo có thể từ bỏ sự kháng cáo, với các hiệu lực đã nói ở điều 1525.
 
(2) Nếu luật không định cách khác, sự kháng cáo do bảo hệ hay chưởng lý đề khởi có thể được từ bỏ do bảo hệ hay chưởng lý của tòa kháng cáo.
 
Ðiều 1637: (1) Kháng cáo do nguyên đơn đề khởi cũng có giá trị cho bị đơn, và ngược lại.
 
(2) Nếu có nhiều bị đơn hay nhiều nguyên đơn, và nếu bản án chỉ bị kháng nghị bởi một người hay chỉ chống lại một người trong số những người đó, thì sự kháng nghị được coi là được đề khởi do tất cả mọi người và chống lại tất cả mọi người khi nào vấn đề được thỉnh cầu có tính cách bất khả phân hay là một nghĩa vụ liên đới.
 
(3) Nếu một đương sự kháng cáo một phần nào của án văn, thì đương sự đối phương, mặc dù đã mãn kỳ kháng cáo, vẫn có thể kháng cáo phụ đới những phần khác của án văn trong thời hạn thất hiệu là mười lăm ngày kể từ ngày sự kháng cáo chính được cáo tri.
 
(4) Trừ khi đã rõ cách khác, sự kháng cáo được kể là chống lại tất cả các phần của án văn.
 
Ðiều 1638: Sự kháng cáo đình chỉ việc chấp hành án văn.
 
Ðiều 1639: (1) Ngoại trừ quy định ở điều 1683, ở cấp bậc kháng cáo, không được nhận thêm thỉnh cầu mới, cho dù với danh nghĩa là muốn nhập chung cho tiện. Bởi vậy, sự đối tụng chỉ có thể nhằm xác nhận hay sửa đổi tất cả hay một phần bản án trước đây mà thôi.
 
(2) Các bằng chứng mới chỉ được thừa nhận chiếu theo quy tắc của điều 1600.
 
Ðiều 1640: Thủ tục ở tòa kháng cáo cũng giống như ở tòa sơ cấp, với những thích ứng cần thiết; tuy nhiên, nếu không thể bổ túc các bằng chứng, thì được phép tranh luận vụ kiện và tuyên án ngay sau sự đối tụng dựa theo quy tắc của điều 1513, triệt 1 và điều 1639, triệt 1.
 
Thiên 9: Vấn Ðề Quyết Tụng Và Sự Phục Hồi Nguyên Trạng
 
Chương I: Vấn Ðề Quyết Tụng
 
Ðiều 1641: Ðừng kể quy định nói ở điều 1643, một vấn đề trở thành quyết tụng:
 
1. nếu có hai bản án y hệt giữa cùng những đương sự về cùng một thỉnh cầu và bởi cùng một lý do;
 
2. nếu sự kháng cáo chống lại án văn không được đệ nạp trong thời hạn hữu ích;
 
3. nếu ở cấp kháng cáo, sự thỉnh nguyện đã bị thất hiệu hay đã được bãi nại;
 
4. nếu có một án chung quyết không được phép kháng cáo chiếu theo quy tắc của điều 1629.
 
Ðiều 1642: (1) Vấn đề quyết tụng được hưởng uy lực pháp lý, và không thể bị trực tiếp kháng nghị, chỉ trừ khi dựa theo quy tắc của điều 1645, triệt 1.
 
(2) Vấn đề quyết tụng có hiệu lực luật pháp giữa các đương sự, phát sinh tố quyền về sự việc đã xử và khước biện của vấn đề quyết tụng. Khước biện này cũng có thể được thẩm phán tuyên bố chiếu chức vụ để ngăn cản sự khởi tố nữa của cùng một vụ kiện.
 
Ðiều 1643: Các vụ kiện về thân trạng, kể cả các vụ án ly thân, không bao giờ trở thành vấn đề quyết tụng.
 
Ðiều 1644: (1) Nếu hai án văn y hệt đã được ban hành trong một vụ kiện vê� thân trạng, có thể được thượng tố lên tòa kháng cáo trong bất cứ thời gian nào, bằng cách trưng ra những bằng chứng hay luận cứ mới và quan trọng, trong thời hạn thất hiệu là ba mươi ngày kể từ khi đệ đơn kháng nghị. Trong thời hạn một tháng từ khi nhận các bằng chứng và luận cứ mới, tòa kháng cáo phải ra án lệnh quyết định chấp nhận hay bác bỏ thỉnh cầu xét lại vụ kiện.
 
(2) Sự thượng tố lên tòa án thượng cấp để xin xét lại vụ kiện không làm đình chỉ việc chấp hành án văn, trừ khi luật định thể khác, hoặc khi tòa kháng cáo ra lệnh đình chỉ chiếu theo quy tắc của điều 1650, triệt 3.
 
Chương II: Phục Hồi Nguyên Trạng
 
Ðiều 1645: (1) Ðể chống lại một án văn đã trở thành vấn đề quyết tụng, có thể xử dụng đến sự phục hồi nguyên trạng, miễn là án văn ấy bất công tỏ tường.
 
(2) Chỉ được coi là có sự bất công tỏ tường:
 
1. nếu án văn dựa trên các bằng chứng mà về sau mới biết là sai; và nếu không nhờ các bằng chứng ấy phần chủ văn bản án không đứng vững;
 
2. nếu sau đó khám phá thêm các tài liệu chứng minh, không chút hồ nghi, các sự kiện mới đòi hỏi một quyết định ngược lại;
 
3. nếu bản án được ban hành do sự lường gạt của một đương sự và gây thiệt hại cho đương sự kia;
 
4. nếu đã bỏ qua một quy định của một điều luật không chỉ có tính cách thuần túy thủ tục;
 
5. nếu án văn đi ngược lại một quyết định trước, và quyết định ấy đã trở thành vấn đề quyết tụng.
 
Ðiều 1646: (1) Sự phục hồi nguyên trạng vì những lý do nói ở điều 1645, triệt 2, các số 1-3, phải được yêu cầu nơi thẩm phán đã ban hành án văn trong thời hạn ba tháng kể từ ngày biết được những lý do đó.
 
(2) Sự phục hồi nguyên trạng vì những lý do nói ở điều 1645, triệt 2, các số 4 và 5, phải được yêu cầu nơi tòa kháng cáo, trong hạn ba tháng kể từ khi công bố án văn. Trong trường hợp nói ở điều 1645, triệt 2 số 5, nếu quyết định trước được biết trễ, thì thời hạn bắt đầu từ khi được biết tin ấy.
 
(3) Các thời hạn nói trên đây không khởi lưu bao lâu người bị thiệt hại còn là vị thành niên.
 
Ðiều 1647: (1) Sự thỉnh nguyện phục hồi nguyên trạng đình chỉ việc chấp hành án văn nếu chưa bắt đầu.
 
(2) Nhưng nếu có những dấu chỉ hữu lý để hồ nghi rằng sự thỉnh nguyện chỉ nhằm đình trệ việc chấp hành, thì thẩm phán có thể quyết định phải chấp hành án văn; tuy nhiên, thẩm phán sẽ có những biện pháp bảo toàn cho người thỉnh nguyện trong trường hợp sự phục hồi nguyên trạng được chấp nhận.
 
Ðiều 1648: Khi đã chấp nhận sự phục hồi nguyên trạng, thẩm phán phải tuyên án về nội dung của vụ kiện.
 
THIÊN 10: ÁN PHÍ VÀ BẢO TRỢ  TƯ PHÁP MIỄN PHÍ
 
Ðiều 1649: (1) Giám Mục nào có trách nhiệm điều hành tòa án phải ấn định các quy tắc:
 
1. về sự buộc các đương sự phải trả hoặc bồi hoàn các án phí;
 
2. về thù lao cho các người thụ ủy, luật sư, giám định viên và thông dịch viên, và bồi thường phí tổn cho các nhân chứng;
 
3. về ban cấp bảo trợ tư pháp miễn phí hay giảm bớt giá ngạch;
 
4. về sự đền bụ thiệt hại dành cho người không những là thất kiện mà còn kiện tụng bừa bãi;
 
5. về sự nạp tiền ký quỹ, hoặc tiền bảo chứng để trả phí tổn và đền bù thiệt hại.
 
(2) Quyết định về án phí về thù lao và về đền bù thiệt hại không được kháng cáo riêng biệt. Tuy nhiên, đương sự có thể thượng tố trong hạn mười lăm ngày lên chính thẩm phán; thẩm phán có thể thay đổi giá ngạch án phí.
 
 
THIÊN 11: SỰ CHẤP HÀNH ÁN VĂN
 
Ðiều 1650: (1) Một án văn đã trở thành vấn đề quyết tụng có được chấp hành, đừng kể khi phải giữ quy định của điều 1647.
 
(2) Thẩm phán đã tuyên án và, nếu có sự đệ nạp kháng cáo, cả thẩm phán tòa kháng cáo, có thể chiểu chức vụ hoặc do lời thỉnh nguyện của đương sự, ra lệnh thi hành tạm thời án văn chưa trở thành vấn đề quyết tụng, khi liên hệ đến những vấn đề trợ cấp hay trả nợ để có thể sinh sống, hoặc khi có lý do chính đáng nào khác thúc bách, miễn là thiết lập những bảo chứng tương xứng nếu xét là cần.
 
(3) Nếu án văn nói ở triệt 2 bị kháng nghị, và thẩm phán phải cứu xét việc kháng nghị thấy có căn cứ hữu lý và sự chấp hành án văn có thể gây thiệt hại vô phương cứu vãn, thì thẩm phán có thể đình chỉ sự chấp hành án văn hay đòi hỏi phải nộp tiền bảo đảm.

Ðiều 1651: Sự chấp hành không thể được thực hiện trước khi có án lệnh chấp hành của thẩm phán ra lệnh truyền chấp hành án văn. Án lệnh này, tùy bản chất khác nhau của vụ kiện, có thể được gồm trong chính án văn, hay được ban hành riêng biệt.
 
Ðiều 1652: Nếu sự chấp hành án văn đòi hỏi sự kê khai tài sản trước, thì vấn đề phụ đới được đặt ra và sẽ được xử do chính thẩm phán đã ban hành án văn được mang ra chấp hành.
 
Ðiều 1653: (1) Nếu luật địa phương không ấn định cách khác, chính Giám Mục giáo phận tại nơi đã ban hành án văn sơ cấp phải đích thân hay nhờ người khác chấp hành án văn.
 
(2) Nếu Giám Mục từ chối hay chểnh mảng, việc chấp hành án văn, do sự yêu cầu của đương sự hay chiểu chức vụ, sẽ được chuyển qua nhà chức trách tại nơi mà tòa kháng cáo lệ thuộc, chiếu theo quy tắc của điều 1439, triệt 3.
 
(3) Ðối với các tu sĩ, việc chấp hành án văn thuộc về Bề Trên đã tuyên hành bản án hay đã ủy nhiệm cho thẩm phán tuyên xử.
 
Ðiều 1654: (1) Người chấp hành phải thi hành bản án theo đúng nghĩa của văn từ, trừ khi trong chính án văn đã cho phép người ấy phần nào được tự do định đoạt.
 
(2) Người chấp hành được phép cứu xét các khước biện về cách thức và hiệu lực của việc thi hành, chứ không xét đến nội dung của vụ kiện. Tuy nhiên, nếu biết rõ ràng là bản án vô hiệu hay bất công tỏ tường chiếu theo quy tắc ở các điều 1620, 1622, 1645, thì người chấp hành phải miễn thi hành, và phải giao lại nội vụ cho tòa án đã ban hành án văn, sau khi đã cáo tri cho các đương sự.
 
Ðiều 1655: (1) Ðối với tố quyền đối vật, khi một đồ vật được phán định là thuộc về nguyên đơn, vật ấy phải được trao cho nguyên đơn liền sau khi xảy ra vấn đề quyết tụng.
 
(2) Ðối với tố quyền đối nhân, khi bị đơn bị kết án trao một vật động sản, hay trả một số tiền, hay trao đưa hay làm một việc gì, thì thẩm phán trong chính bản văn, hay người chấp hành, tùy theo sự định đoạt khôn ngoan của mình, phải ấn định hạn kỳ để chu toàn nghĩa vụ. Hạn kỳ này không được dưới mười lăm ngày cũng không được quá sáu tháng.
 
Tiết II: Tố Tụng Hộ Sự Khẩu Biện
 
Ðiều 1656: (1) Tố tụng hộ sự khẩu biện nói trong tiết này có thể được xử dụng trong tất cả vụ kiện mà luật không loại trừ, trừ khi một đương sự yêu cầu tiến hành theo tố tụng hộ sự thông thường.
 
(2) Nếu tố tụng khẩu biện được xử dụng ngoài các trường hợp luật pháp cho phép, các án từ tư pháp sẽ bị vô hiệu.
 
Ðiều 1657: Tố tụng hộ sự khẩu biện ở tòa sơ cấp sẽ do thẩm phán duy nhất xét xử, chiếu theo quy tắc của điều 1424.
 
Ðiều 1658: (1) Ngoài những điểm đã nói ở điều 1504, đơn khởi tố còn phải:
 
1. trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng những sự kiện dựa vào đó nguyên đơn thỉnh nguyện;
 
2. chỉ rõ các bằng chứng, theo đó nguyên đơn định chứng minh các sự kiện; tuy các bằng chứng ấy không thể đính kèm trong đơn được, nhưng phải làm cách nào để thẩm phán có thể thâu thập tức khắc.
 
(2) Trong đơn phải đính kèm theo những văn kiện, ít là bằng bản sao công chứng, làm nền tảng cho việc thỉnh nguyện.
 
Ðiều 1659: (1) Một khi sự cố gắng hòa giải, theo quy tắc của điều 1446, triệt 2, không đem lại kết quả, nếu thẩm phán nhận thấy đơn khởi tố có vài nền tảng, thì trong hạn ba ngày, phải ra một án lệnh phê ở dưới đơn ấy, truyền tống đạt một bản sao của lá đơn đến bị đơn để cáo tri, và cho phép bị đơn, trong hạn mười lăm ngày, phải gởi đến văn phòng tòa án phúc đáp viết ra giấy tờ.
 
(2) Sự cáo tri này có hiệu lực của lệnh triệu hoán nói ở điều 1512.
 
Ðiều 1660: Nếu có khước biện của bị đơn đòi hỏi, thẩm phán sẽ ấn định cho nguyên đơn thời hạn để trả lời. Nhờ các yếu tố mà các đương sự trưng dẫn, thẩm phán có thể nhận thấy rõ ràng đối tượng của sự tranh tụng.
 
Ðiều 1661: (1) Khi mãn các thời hạn nói ở các điều 1659 và 1660, và dựa trên án từ, thẩm phán phải xác định công thức của vấn nạn cần được giải quyết. Tiếp đến, phải đòi tất cả những người liên hệ ra trình diện ở tòa, trong một phiên họp triệu tập trong vòng không quá ba mươi ngày. Khi đòi các đương sự, thẩm phán phải cho họ biết công thức vấn nạn cần được giải quyết.
 
(2) Trong sự triệu hoán, các đương sự phải được thông báo là họ có thể đệ trình cho tòa án một bản viết ngắn để chứng minh những điều quả quyết của họ, ít nữa là ba ngày trước phiên họp.
 
Ðiều 1662: Trong phiên họp, trước hết phải xét đến các vấn đề được nói ở các điều 1459-1464.
 
Ðiều 1663: (1) Các bằng chứng sẽ được thu thập trong phiên họp tuy vẫn giữ quy định của điều 1418.
 
(2) Ðương sự và luật sư của đương sự có thể tham dự cuộc thẩm vấn của các đương sự khác, của các nhân chứng và của các giám định viên.
 
Ðiều 1664: Các câu trả lời của các đương sự, của các nhân chứng và của các giám định viên, các thỉnh nguyện và khước biện của các luật sư, phải được lục sự ghi lại trên giấy tờ, nhưng cần ghi cách tóm tắt và ghi phần liên quan đến bản tính của vấn đề tranh tụng; biên bản phải được những người cung khai ký.
 
Ðiều 1665: Các bằng chứng đã không được trưng dẫn hay yêu cầu trong thỉnh đơn, hay trong các câu trả lời, chỉ có thể được thẩm phán chấp nhận chiếu theo quy tắc của điều 1452; tuy nhiên, sau khi đã nghe dù chỉ là một nhân chứng, thẩm phán chỉ có thể đòi thêm bằng chứng mới chiếu theo quy tắc của điều 1660.
 
Ðiều 1666: Nếu trong phiên họp ấy không thể thu thập tất cả các bằng chứng thì một phiên họp khác sẽ được triệu tập.
 
Ðiều 1667: Khi đã thu thập các bằng chứng xong, cuộc tranh luận khẩu biện sẽ diễn ra trong cùng một phiên họp.
 
Ðiều 1668: (1) Nếu qua cuộc tranh luận, thẩm phán không thấy cần phải bổ túc thẩm cứu cho vụ án, hay không có sự gì khác ngăn trở việc tuyên án hợp thức, thẩm phán sẽ lập tức phán xử vụ kiện một mình sau khi mãn phiên họp. Phần chủ văn bản án phải được đọc liền sau đó cho các đương sự đương tịch.
 
(2) Tuy nhiên, vì vấn đề khó khăn hay vì lý do chính đáng khác, tòa án có thể hoãn lại việc quyết định cho đến ngày thứ năm tính theo thời gian hữu ích.
 
(3) Nguyên bản của án văn cùng với các lý do được viện dẫn phải được cáo tri cho các đương sự càng sớm càng tốt, và thường là trong thời hạn mười lăm ngày.
 
Ðiều 1669: Nếu xét thấy tố tụng hộ sự khẩu biện đã được áp dụng ở tòa sơ cấp trong những trường hợp bị luật pháp loại trừ, tòa kháng cáo phải tuyên bố án văn vô hiệu và gởi trả nội vụ lại cho tòa đã ban hành bản án.
 
Ðiều 1670: Về những vấn đề khác liên quan đến thủ tục tiến hành phải giữ những quy định ở các điều khoản nói về tố tụng hộ sự thông thường. Tuy nhiên, với một án lệnh có viện dẫn lý do, tòa án có thể quyết định bỏ qua những quy tắc tố tụng nào không được ấn định cho sự hữu hiệu, hầu cho vụ kiện được giải quyết nhanh chóng hơn, miễn sao công lý vẫn được tôn trọng.
 
PHẦN III: VÀI TỐ TỤNG ÐẶC BIỆT

 
THIÊN 1: TỐ TỤNG HÔN NHÂN
 
Chương I: Vụ Kiện Tuyên Bố Hôn Nhân Vô Hiệu
 
Mục 1: Tòa án có thẩm quyền
 
Ðiều 1671: Theo luật riêng, các vụ kiện hôn nhân của những người đã chịu phép rửa tội thuộc thẩm quyền của thẩm phán Giáo Hội.
 
Ðiều 1672: Các vụ kiện về những hiệu lực thuần túy dân sự của hôn nhân sẽ thuộc quyền của thẩm phán dân sự, trừ khi luật địa phương đã ấn định là các vụ kiện ấy có thể do thẩm phán Giáo Hội cứu xét và phán định, như là vấn đề phụ đới và tùy tòng.
 
Ðiều 1673: Ðối với những vụ kiện về sự vô hiệu của hôn nhân mà Tòa Thánh không dành riêng, thì tòa án có thẩm quyền là:
 
1. tòa án tại nơi đã cử hành hôn nhân;
 
2. tòa án tại nơi bị đơn có cư sở hay ban cư sở;
 
3. tòa án tại nơi nguyên đơn có cư sở, miễn là cả hai đương sự đều cư ngụ trong lãnh thổ của cùng một Hội Ðồng Giám Mục, và được sự đồng ý của Ðại diện Tư pháp nơi bị đơn có cư sở, sau khi nghe ý kiến của chính bị đơn;
 
4. tòa án nơi mà trong thực tế, một phần lớn các bằng chứng sẽ được thâu thập, miễn là có sự đồng ý của Ðại diện Tư pháp tại nơi bị đơn có cư sở, sau khi đã hỏi bị đơn xem có gì phản đối hay không.
 
Mục 2: Quyền kháng nghị hôn nhân
 
Ðiều 1674: Những người sau đây có năng cách kháng nghị hôn nhân:
 
1. những người phối ngẫu;
 
2. chưởng lý, khi sự vô hiệu đã thành công khai, nếu không thể hay không tiện hữu hiệu hóa.
 
Ðiều 1675: (1) Hôn nhân nào không bị tố cáo khi cả hai vợ chồng còn sống, thì không thể bị tố cáo sau khi cả hai hay một trong hai người mệnh một, trừ khi vấn đề về sự hữu hiệu có tính cách tiên quyết để giải quyết một tranh chấp khác hoặc ở tòa giáo luật hoặc ở tòa dân sự.
 
(2) Nếu một người phối ngẫu mệnh một trong khi tiến hành vụ án, thì phải áp dụng điều 1518.
 
Mục 3: Nhiệm vụ của thẩm phán
 
Ðiều 1676: Trước khi thâu nhận vụ án và khi thấy có hy vọng đạt kết quả tốt, thẩm phán phải dùng các phương thế mục vụ để khuyến dụ hai người phối ngẫu, ngõ hầu, nếu có thể, họ hữu hiệu hóa hôn nhân và tái lập sự sống chung giữa vơ chồng.
 
Ðiều 1677: (1) Khi đã nhận đơn, chánh án hay thẩm phán phúc trình viên phải cáo tri án lệnh triệu ra tòa, chiếu theo quy tắc của điều 1508.
 
(2) Sau khi đã trôi qua hạn kỳ mười lăm ngày kể từ khi cáo tri, chánh án hay thẩm phán phúc trình viên, trừ khi một đương sự đã yêu cầu mở một phiên tòa để đối tụng, trong hạn mười ngày phải ấn định bằng án lệnh công thức vấn nạn cần được giải quyết, và phải cáo tri cho các đương sự.
 
(3) Trong công thức vấn nạn, không những đặt vấn đề xem sự vô hiệu của hôn nhân có chứng minh được hay không, mà còn phải xác định vì lý do gì mà sự hữu hiệu của hôn nhân bị kháng nghị.
 
(4) Sau mười ngày từ khi cáo tri án lệnh, nếu các đương sự không chống đối, chánh án hay thẩm phán phúc trình viên phải ra lệnh tiến hành cuộc điều tra bằng một án lệnh mới.
 
Mục 4: Bằng chứng
 
Ðiều 1678: (1) Bảo hệ, các luật sư của các đương sự và cả chưởng lý, nếu can dự vào vụ án, có quyền:
 
1. có mặt trong cuộc thẩm vấn các đương sự, các nhân chứng, các giám định viên, miễn là tuân hành quy định ở điều 1559;
 
2. xem các án từ tư pháp mặc dù chưa được công bố, và khảo sát các tài liệu do các đương sự cung cấp.
 
(2) Các đương sự không được tham dự vào cuộc thẩm vấn nói ở triệt 1, số 1.
 
Ðiều 1679: Trừ khi có được các bằng chứng đầy đủ từ nguồn khác, để ước định các lời cung khai của các đương sự theo quy tắc ở điều 1536, thẩm phán, nếu có thể được, hãy tìm các nhân chứng công nhận sự đáng tin của các đương sự, cũng như phải thu thập các dấu chỉ và những yếu tố bổ túc khác.
 
Ðiều 1680: Trong những vụ kiện về sự bất lực hay về sự thiếu ưng thuận vì bệnh tinh thần, thẩm phán phải nhờ đến một hay nhiều giám định viên, trừ khi hoàn cảnh cho thấy rõ là không cần thiết. Trong những vụ kiện khác, phải giữ quy định của điều 1574.
 
Mục 5: Án văn và sự kháng cáo
 
Ðiều 1681: Trong khi thẩm cứu vụ án, nếu xảy ra nghi vấn hữu lý về hôn phối bất hoàn hợp, thì tòa án, sau khi đình chỉ vụ kiện về sự vô hiệu với sự đồng ý của các đương sự, có thể tiến hành sự thẩm cứu để xin chuẩn hôn nhân thành nhận; sau đó, chuyển các án từ lên Tòa Thánh cùng với thỉnh nguyện xin chuẩn của một hay của cả hai vợ chồng và cùng với ý kiến của tòa án và của Giám Mục.
 
Ðiều 1682: (1) Án văn tuyên bố hôn nhân vô hiệu, cùng với các kháng cáo nếu có, và các án từ tố tụng khác, phải được chuyển, chiếu chức vụ, lên tòa kháng cáo trong hạn hai mươi ngày từ khi công bố án văn.
 
(2) Nếu ở tòa sơ cấp, án văn được ban hành có lợi cho sự vô hiệu của hôn nhân, thì tòa kháng cáo, sau khi cân nhắc các điều nhận xét của bảo hệ và của các đương sự nếu có, phải ra một án lệnh để hoặc xác nhận quyết nghị ấy hoặc thu nhận vụ kiện để thẩm sát theo đường lối thông thường ở cấp bực mới.
 
Ðiều 1683: Nếu ở cấp bậc kháng cáo, một lý do mới của sự vô hiệu hôn nhân được nại ra, tòa án có thể thu nhận lý do đó và phán định như ở tòa sơ cấp.
 
Ðiều 1684: (1) Sau khi án văn tuyên bố hôn nhân vô hiệu ở tòa sơ cấp được xác nhận bằng án lệnh hay bằng một án văn khác ở tòa kháng cáo, thì những người có hôn nhân bị tuyên bố vô hiệu, có thể tái hôn liền sau khi án lệnh hoặc án văn khác được cáo tri, trừ khi có lệnh ngăn cấm tái hôn đã được ghi chú vào án văn hay án lệnh, hoặc do Bản Quyền sở tại đã ấn định.
 
(2) Những quy định ở điều 1644 phải được tuân giữ, cả khi án văn tuyên bố hôn nhân vô hiệu đã được xác nhận không phải bằng một án văn khác, nhưng bằng một án lệnh.
 
Ðiều 1685: Khi án văn đã có hiệu lực chấp hành, Ðại diện Tư pháp phải thông tri cho Bản Quyền sở tại nơi đã cử hành hôn nhân. Bản Quyền này phải lo ghi chú ngay vào sổ hôn phối và sổ rửa tội, về sự tuyên bố hôn nhân vô hiệu và những ngăn cấm kèm theo nếu có.
 
Mục 6: Tố tụng dựa trên tài liệu
 
Ðiều 1686: Sau khi nhận thỉnh đơn theo quy tắc của điều 1677, Ðại diện Tư pháp hay thẩm phán được Ðại diện Tư pháp chỉ định, có thể bỏ những trọng thức của vụ kiện thông thường, và triệu các đương sự ra tòa, cùng với sự can thiệp của bảo hệ, để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, nếu tài liệu chứng minh rõ ràng có ngăn trở tiêu hôn hay thiếu hình thức hợp lệ; tài liệu ấy phải chắc chắn không thể bị phản đối hay khước biện và cũng chắc chắn rằng ngăn trở đã không được miễn chuẩn, hoặc người đại diện đã không có ủy nhiệm thư hữu hiệu.
 
Ðiều 1678: (1) Nếu bảo hệ ước định cách khôn ngoan rằng những hà tì nói ở điều 1686 hay sự thiếu miễn chuẩn, không được chắc chắn, thì vị ấy phải kháng cáo chống lại lời tuyên bố vô hiệu lên thẩm phán tòa đệ nhị cấp. Các án từ phải được gởi đến thẩm phán tòa đệ nhị cấp, đồng thời phải chú thích trên giấy tờ cho biết đó là một vụ tố tụng dựa trên tài liệu.
 
(2) Ðương sự nào cho rằng mình bị thiệt hại, có toàn quyền kháng cáo.
 
Ðiều 1688: Thẩm phán tòa đệ nhị cấp, với sự can dự của bảo hệ và sau khi nghe các đương sự, sẽ quyết định cũng một cách như nói ở điều 1686, để xác nhận án văn hay phải tiến hành vụ kiện theo thủ tục thông thường của luật pháp; trong trường hợp này, thẩm phán phải gởi trả vụ kiện cho tòa sơ cấp.
 
Mục 7: Tổng tắc
 
Ðiều 1689: Trong án văn, các đương sự phải được nhắc nhở cả về những bổn phận luân lý hay dân sự mà bên này phải giữ đối với bên kia, và đối với việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái.
 
Ðiều 1690: Không được áp dụng tố tụng hộ sự khẩu biện trong các vụ kiện tuyên bố hôn nhân vô hiệu.
 
Ðiều 1691: Trong những vấn đề khác liên quan đến thủ thục tiến hành, phải áp dụng các điều khoản nói về sự phán xử nói chung và về tố tụng hộ sự thông thường, trừ khi bản chất vấn đề đòi hỏi cách khác, cũng như phải tuân giữ các quy tắc đặc biệt về các vụ kiện về thân trạng và các vụ kiện liên quan đến công ích.
 
Chương II: Các Vụ Kiện Ly Thân
 
Ðiều 1692: (1) Trừ khi có luật pháp đã dự liệu đặc biệt cho từng địa phương, sự ly thân của hai vợ chồng đã chịu phép rửa tội có thể được quyết nghị do nghị định của Giám Mục giáo phận, hay do bản án của thẩm phán, chiếu theo quy tắc của các điều luật sau đây.
 
(2) Ở đâu quyết định của giáo quyền không phát sinh hiệu lực về dân luật, hay nếu thấy trước bản án dân luật không nghịch lại thiên luật, Giám Mục giáo phận nơi hai vợ chồng cư ngụ, sau khi cân nhắc hoàn cảnh đặc biệt, có thể cho phép họ nại đến tòa án dân sự.
 
(3) Nếu vụ án cũng liên qua đến các hiệu lực thuần túy dân sự của hôn nhân, thì thẩm phán, sau khi giữ quy định nói ở triệt 2, phải làm thế nào để vụ kiện ngay từ đầu được đưa ra tòa án dân sự.
 
Ðiều 1693: (1) Nếu đương sự hay chưởng lý không yêu cầu áp dụng tố tụng hộ sự thông thường, thì sẽ áp dụng tố tụng hộ sự khẩu biện.
 
(2) Nếu áp dụng tố tụng hộ sự thông thường và kháng cáo được đệ nạp, thì tòa đệ nhị cấp phải tiến hành theo quy tắc của điều 1682, triệt 2, miễn là giữ những gì cần phải giữ.
 
Ðiều 1694: Về thẩm quyền tòa án, phải giữ các quy định của điều 1673.
 
Ðiều 1695: Trước khi nhận vụ kiện và khi đoán có hy vọng đạt được kết quả tốt, thẩm phán phải dùng các phương thế mục vụ để giải hòa hai vợ chồng và khuyến dụ họ tái lập cuộc sống chung.
 
Ðiều 1696: Những vụ kiện ly thân cũng liên quan đến công ích; vì thế chưởng lý phải luôn can thiệp theo quy tắc của điều 1433.
 
Chương III: Tố Tụng Miễn Chuẩn Hôn Nhân Thành Nhận Nhưng Bất Hoàn Hợp
 
Ðiều 1697: Duy chỉ hai vợ chồng hay một trong hai, mặc dù người kia không muốn, mới có quyền yêu cầu ơn chuẩn hôn nhân thành nhận nhưng chưa hoàn hợp.
 
Ðiều 1698: (1) Chỉ một mình Tòa Thánh phán quyết về sự kiện bất hoàn hợp của hôn nhân, và về sự có lý do chính đáng để ban ơn chuẩn.
 
(2) Ơn chuẩn chỉ do một mình Ðức Thánh Cha ban mà thôi.
 
Ðiều 1699: (1) Thẩm quyền nhận đơn xin chuẩn là Giám Mục Giáo Phận nơi nguyên đơn có cư sở hay bán cư sở; nếu lời yêu cầu có căn bản, Giám Mục phải ra lệnh để lo thẩm cứu vụ kiện.
 
(2) Nếu trường hợp đề ra có nhiều khó khăn đặc biệt thuộc lãnh vực pháp lý và luân lý, Giám Mục giáo phận phải hỏi ý kiến Tòa Thánh.
 
(3) Nếu đơn thỉnh nguyện bị nghị định của Giám Mục bác bỏ, thì có thể thượng tố lên Tòa Thánh.
 
Ðiều 1700: (1) Tuy vẫn tuân giữ điều 1681, Giám Mục nên ủy thác việc thẩm cứu các vụ này, cách thường xuyên hay cho từng trường hợp, cho tòa án giáo phận của mình hay của giáo phận khác, hoặc cho một linh mục có khả năng.
 
(2) Nếu đã nạp đơn khởi tố để xin tuyên bố sự vô hiệu của hôn nhân ấy, thì sự thẩm cứu vụ kiện phải được ủy thác cho cùng một tòa án.
 
Ðiều 1701: (1) Trong các vụ kiện này, bảo hệ phải luôn luôn can thiệp.
 
(2) Luật sư không được thâu nhận; tuy nhiên, vì trường hợp khó khăn, Giám Mục có thể cho phép nguyên đơn hay bị đơn nhờ một chuyên viên về luật khoa giúp đỡ.
 
Ðiều 1702: Trong khi thẩm cứu, phải nghe cả hai người phối ngẫu, và trong mức độ có thể, phải giữ các điều khoản về việc thu thập bằng chứng trong tố tụng hộ sự thông thường và trong những vụ kiện tuyên bố hôn nhân vô hiệu, miễn là có thể dung hòa với bản tính của các vụ kiện này.
 
Ðiều 1703: (1) Án từ sẽ không được công bố. Tuy nhiên, nếu thấy rằng các bằng chứng được trưng dẫn gây ngăn trở hệ trọng cho thỉnh nguyện của nguyên đơn hay cho khước biện của bị đơn, thẩm phán có thể khôn ngoan tỏ cho bên đương sự liên hệ biết.
 
(2) Nếu có đương sự nào yêu cầu, thẩm phán có thể cho xem tài liệu đã được đệ trình hay bằng chứng đã được thu thập, và có thể ấn định thời hạn để rút ra các kết luận.
 
Ðiều 1704: (1) Sau khi hoàn tất cuộc thẩm cứu, người thẩm cứu phải trao tất cả án từ cùng với tờ phúc trình xứng hợp cho Giám Mục. Giám Mục phải phát biểu ý kiến của mình dựa trên sự thật khách quan về sự kiện bất hoàn hợp, cũng như về lý do chính đáng để miễn chuẩn và sự thích hợp của ơn chuẩn.
 
(2) Nếu việc thẩm cứu vụ kiện được ủy thác cho một tòa án khác theo quy tắc của điều 1700, thì các nhận xét bảo vệ hôn hệ sẽ do chính tòa án đó soạn thảo, nhưng ý kiến nói ở triệt 1 thuộc về Giám Mục đã ủy nhiệm; người thẩm cứu phải trao cho ngài bản phúc trình xứng hợp cùng với các án từ.
 
Ðiều 1705: (1) Giám Mục phải gởi lên Tòa Thánh tất cả các án từ cùng với ý kiến của mình và các nhận xét của bảo hệ.
 
(2) Nếu xét cần phải bổ túc sự thẩm cứu, thì Tòa Thánh sẽ cho Giám Mục biết và sẽ chỉ định những phần nào phải được thẩm cứu bổ túc.
 
(3) Nếu Tòa Thánh phúc đáp rằng qua các bằng chứng không xác định được sự bất hoàn hợp, thì chuyên viên luật khoa nói ở điều 1701, triệt 2, có thể xem xét án từ vụ kiện tại trụ sở tòa án, nhưng không được xem ý kiến của Giám Mục, ngõ hầu ước định xem có thể thêm lý do nào hệ trọng để đệ nạp thỉnh nguyện lần nữa.
 
Ðiều 1706: Phúc nghị của ân chuẩn sẽ được Tòa Thánh gởi cho Giám Mục, Giám Mục sẽ cáo tri phúc nghị cho các đương sự và truyền lệnh ngay cho cha sở nơi đã kết hôn và nơi đã chịu phép rửa tội, để ghi chú ân chuẩn vào sổ hôn phối và sổ rửa tội.
 
Chương IV: Vụ Kiện Suy Ðoán Sự Mệnh Một Của Người Phối Ngẫu
 
Ðiều 1707: (1) Một khi sự mệnh một của một người phối ngẫu không được chứng minh bằng tài liệu công chứng của giáo quyền hay chính quyền, người phối ngẫu kia không được tự tháo bỏ hôn hệ, nếu không được Giám Mục giáo phận tuyên bố sự suy đoán tử vong.
 
(2) Giám Mục giáo phận chỉ có thể ra tuyên cáo nói ở triệt 1, sau khi đã điều tra cẩn thận, qua các lời cung khai của các nhân chứng, qua tiếng đồn hay qua các dấu hiệu khác, hầu nắm được sự chắc chắn luân lý về sự mệnh một của người phối ngẫu. Nguyên sự thất tung, tuy đã lâu dài, không đủ để có thể tuyên bố.
 
(3) Trong những trường hợp không chắc và phức tạp, Giám Mục phải hỏi ý kiến của Tòa Thánh.
 
Thiên 2: Các Vụ Tuyên Bố Sự Truyền Chức Thánh Vô Hiệu
 
Ðiều 1708: Quyền tố cáo sự truyền chức thánh vô hiệu thuộc về chính giáo sĩ, hoặc Bản Quyền mà giáo sĩ lệ thuộc, và Bản Quyền giáo phận nơi giáo sĩ đã chịu chức.
 
Ðiều 1709: (1) Ðơn phải được gởi đến Bộ có thẩm quyền; Bộ sẽ quyết định vụ kiện sẽ được cứu xét do chính Bộ của Giáo Triều Rôma hay do một tòa án được Bộ chỉ định.
 
(2) Một khi đã nộp đơn, giáo sĩ bị cấm thi hành chức vụ do chính luật pháp.
 
Ðiều 1710: Nếu Bộ trao vụ kiện cho một tòa án, thì các điều khoản nói về sự phán xử nói chung và về tố tụng hộ sự thông thường phải được tuân giữ, nếu không nghịch lại bản tính vấn đề; ngoài ra, phải giữ các quy định của thiên này.
 
Ðiều 1711: Trong những vụ này, bảo hệ hưởng cũng những quyền lợi và giữ những nghĩa vụ như bảo hệ hôn nhân.
 
Ðiều 1712: Sau khi án văn thứ hai xác nhận sự truyền chức thánh vô hiệu, giáo sĩ mất hết các quyền lợi riêng cho bậc giáo sĩ và được giải trừ khỏi mọi nghĩa vụ.
 
 
THIÊN 3: NHỮNG CÁCH THỨC TRÁNH KIỆN TỤNG
 
Ðiều 1713: Ðể tránh các cuộc tố tụng tư pháp, nên xử dụng sự điều đình hay hòa giải, hay có thể ủy thác cuộc tranh chấp cho một hay nhiều trọng tài xét xử.
 
Ðiều 1714: Về việc điều đình, thỏa hiệp, và trọng tài, phải giữ những quy tắc do các đương sự lựa chọn. Nếu các đương sự không lựa chọn quy tắc nào cả, thì phải theo những luật do Hội Ðồng Giám Mục ấn định nếu có, hoặc dân luật hiện hành tại nơi ký kết giao ước.
 
Ðiều 1715: (1) Sự điều đình hay thỏa hiệp không thể áp dụng cách hữu hiệu trong những vấn đề liên quan đến công ích và những vấn đề khác mà các đương sự không thể tự do định đoạt.
 
(2) Trong vấn đề liên quan đến tài sản của Giáo Hội, khi sự việc đòi hỏi, phải giữ các thủ tục do luật định cho việc di nhượng tài sản Giáo Hội.
 
Ðiều 1716: (1) Nếu dân luật không thừa nhận hiệu lực của một phán quyết trọng tài khi không được thẩm phán phê chuẩn, thì để có hiệu lực ở tòa giáo luật, phán quyết trọng tài về một tranh chấp Giáo Hội phải được phê chuẩn do thẩm phán Giáo Hội tại nơi mà phán quyết đã được ban hành.
 
(2) Tuy nhiên, nếu dân luật thừa nhận sự kháng nghị của phán quyết trọng tài trước thẩm phán dân sự, thì chính sự kháng nghị này có thể được nạp tại tòa giáo luật trước thẩm phán Giáo Hội; và vị này có thẩm quyền để phán xử sơ thẩm cuộc tranh chấp.
 
Phần IV: Tố Tụng Hình Sự
 
Chương I: Ðiều Tra Sơ Khởi
 
Ðiều 1717: (1) Mỗi khi biết được, ít là cách đáng tin, về một tội phạm đã xảy ra, thì Bản Quyền phải tự mình hay nhờ người xứng đáng điều tra cách thận trọng về các sự kiện, các hoàn cảnh và về sự quy trách, trừ khi sự điều tra này xem ra hoàn toàn vô ích.
 
(2) Phải ý tứ kẻo việc điều tra này gây nguy hại đến thanh danh của bất cứ người nào.
 
(3) Người điều tra cũng có quyền hành và nghĩa vụ như dự thẩm trong tố tụng. Nếu sau đó có tố tụng tư pháp, người điều tra sẽ không được làm thẩm phán.
 
Ðiều 1718: (1) Khi ước định là các yếu tố thu thập đã đủ, Bản Quyền phải quyết định:
 
1. có thể tiến hành tố tụng hay không, để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt;
 
2. có nên tiến hành hay không, chiếu theo điều 1341;
 
3. có cần dùng đến tố tụng tư pháp hay không, hay nếu luật pháp không cấm, phải tiến hành bằng nghị định ngoại tư pháp.
 
(2) Bản Quyền phải thu hồi hay sửa đổi nghị định nói ở triệt 1, mỗi khi các yếu tố mới thúc đẩy phải quyết định thể khác.
 
(3) Khi ban hành nghị định nói ở triệt 1 và 2, Bản Quyền, tùy theo sự khôn ngoan, nên tham khảo hai thẩm phán hoặc các chuyên viên luật khoa.
 
(4) Trước khi quyết định theo quy tắc nói ở triệt 1 và 2, Bản Quyền phải xét xem có tiện để chính mình hay người điều tra, với sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định vấn đề thiệt hại, theo lẽ phải và công bình, hầu tránh những phán xử vô ích.
 
Ðiều 1719: Nếu không cần dùng vào tố tụng hình sự, thì các án từ điều tra và các nghị định của Bản Quyền để mở và kết thúc cuộc điều tra, và tất cả mọi tài liệu trước cuộc điều tra phải được cất giữ trong văn khố của giáo phủ.
 
Chương II: Diễn Tiến Của Tố Tụng
 
Ðiều 1720: Nếu Bản Quyền nghĩ rằng phải tiến hành bằng nghị định ngoại tư pháp:
 
1. phải cho bị cáo biết sự tố cáo và bằng chứng, và phải cho họ tự biện hộ, trừ khi bị cáo đã bị triệu hoán cách hợp thức nhưng chểnh mảng không ra trình diện;
 
2. phải cân nhắc kỹ lưỡng tất cả các bằng chứng và luận cứ với hai phụ thẩm;
 
3. khi đã chắc chắn là tội phạm đã xảy ra và tố quyền hình sự chưa bị tiêu diệt, thì một nghị định sẽ được ban hành theo quy tắc ở các điều 1342-1350, trong đó trình bày, ít là cách vắn tắt, các lý do về luật pháp và về sự kiện.
 
Ðiều 1721: (1) Nếu Bản Quyền ban hành nghị định tiến hành tố tụng hình sự tư pháp, thì Bản Quyền phải gởi các án từ điều tra cho chưởng lý để vị này nộp đơn tố cáo lên thẩm phán chiếu theo quy tắc ở các điều 1502 và 1504.
 
(2) Ở tòa thượng cấp, chưởng lý được thiết lập cho tòa đó sẽ đóng vai nguyên cáo.
 
Ðiều 1722: Ở bất cứ giai đoạn nào của vụ kiện, để phòng ngừa gương xấu, để bảo vệ tự do của nhân chứng và để bảo toàn sự lưu hành của công lý, Bản Quyền, sau khi thỉnh ý chưởng lý và triệu hoán bị cáo, có thể cấm bị cáo thi hành chức thánh hoặc một chức vụ hay trọng trách trong Giáo Hội, buộc hay cấm bị cáo cư ngụ trong một nơi hay lãnh thổ, hay cấm tham dự công khai bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, tất cả những biện pháp này phải được rút lại khi lý do thúc đẩy đã chấm dứt, và đương nhiên hết hiệu lực khi kết thúc thủ tục hình sự.
 
Ðiều 1723: (1) Khi thẩm phán triệu bị cáo ra tòa, thì cũng phải mời bị cáo tự chọn một luật sư, theo quy tắc của điều 1481, triệt 1, trong hạn kỳ do chính thẩm phán ấn định.
 
(2) Nếu bị cáo không chọn, thì chính thẩm phán phải bổ nhiệm một luật sư trước khi diễn ra sự đối tụng; luật sư này sẽ giữ chức vụ bao lâu bị cáo không tự chọn cho mình một luật sư khác.
 
Ðiều 1724: (1) Ở bất cứ cấp bực phán xử nào, chưởng lý cũng có thể khước từ vụ kiện, do một mệnh lệnh hay do sự đồng ý của Bản Quyền đã quyết định bắt đầu vụ kiện.
 
(2) Ðể có hiệu lực, sự khước từ phải được bị cáo chấp nhận, trừ khi chính bị cáo bị tuyên bố khuyết tịch.
 
Ðiều 1725: Trong khi tranh luận vụ án, hoặc bằng luận trạng viết hay bằng khẩu biện, bị cáo luôn luôn có quyền tự mình hay nhờ luật sư hay người thụ ủy viết hay nói lời sau cùng.
 
Ðiều 1726: Ở bất cứ cấp bực hay giai đoạn nào của tố tụng hình sự, nếu nhận thấy rõ ràng tội phạm không do bị cáo lỗi phạm, thì thẩm phán phải tuyên bố điều ấy trong án văn và tha bổng bị cáo, cả khi tố quyền hình sự đã bị thời tiêu.
 
Ðiều 1727: (1) Bị cáo có thể kháng cáo, cả khi bản án đã miễn phạt bị cáo bởi vì hình phạt là nhiệm ý hay bởi vì thẩm phán đã xử dụng quyền nói ở các điều 1344 và 1345.
 
(2) Chưởng lý có thể kháng cáo mỗi khi xét thấy việc sửa chữa gương xấu hay việc hoàn trả theo lẽ công bình không được quy định đầy đủ.
 
Ðiều 1728: (1) Tuy phải tuân hành các quy định của các điều luật trong thiên này, nhưng trong vụ kiện hình sự vẫn phải áp dụng các điều về tố tụng nói chung và về tố tụng hộ sự thông thường, trừ khi chúng trái ngược với bản chất của vấn đề và miễn là giữ các quy tắc riêng biệt về các vụ kiện liên hệ đến công ích.
 
(2) Bị cáo không bị buộc phải thú nhận tội phạm của mình, cũng không được bắt bị cáo phải thề.
 
Chương III: Tố Quyền Ðòi Bồi Thường Thiệt Hại
 
Ðiều 1729: (1) Ðương sự nào bị thiệt hại có thể xử dụng tố quyền hộ sự để đòi bồi thường thiệt hại mình đã chịu do tội phạm gây ra trong chính phán xử hình sự, theo quy tắc ở điều 1596.
 
(2) Sự can thiệp của đương sự bị thiệt hại, nói ở triệt 1, không được chấp nhận nữa nếu đã không được thực hiện ở bậc sơ cấp của phán xử hình sự.
 
(3) Kháng cáo trong vụ kiện về sự thiệt hại phải được thực hiện theo quy tắc ở các điều 1628-1640, cho dù không thể kháng cáo được trong phán xử hình sự. Tuy nhiên, nếu sự kháng cáo cho cả hai trường hợp được đệ trình, mặc dù do nhiều đương sự khác nhau, thì cũng chỉ xét trong một phán xử kháng cáo duy nhất, miễn là vẫn giữ quy định ở điều 1730.
 
Ðiều 1730: (1) Ðể tránh việc trì hoãn phán xử hình sự, thẩm phán có thể hoãn lại phán xử về sự thiệt hại cho đến khi ban hành bản án chung quyết về phán xử hình sự.
 
(2) Thẩm phán nào đã hành động như thế thì, sau khi ban hành bản án trong phán xử hình sự, phải phán xử về sự thiệt hại, kể cả khi vụ kiện hình sự chưa thành chung quyết vì đã có sự kháng nghị, hoặc kể cả khi bị cáo đã được xá miễn vì một lý do nào đó không cất khỏi nghĩa vụ phải đền bù thiệt hại.
 
Ðiều 1731: Một bản án ban hành trong vụ kiện hình sự, cả khi đã trở thành vấn đề quyết tụng, không tạo ra một quyền lợi nào cho đương sự bị thiệt hại, nếu người này đã không can thiệp dựa theo quy tắc của điều 1729.
 
Phần V: Thủ Tục Áp Dụng Trong Việc Thượng Cầu Hành Chánh Và Trong Việc Bãi Chức Hay Thuyên Chuyển Cha Sở
 
Tiết I: Thượng Cầu Kháng Lại Một Nghị Ðịnh Hành Chánh
 
Ðiều 1732: Những gì được ấn định trong các điều khoản của tiết này về các nghị định, phải được áp dụng cho tất cả các hành vi hành chánh cá biệt được ban hành ở tòa ngoài theo thủ tục ngoại tư pháp, ngoại trừ những quyết nghị do chính Ðức Thánh Cha do chính Công Ðồng Hoàn Vũ ban hành.
 
Ðiều 1733: (1) Rất mong rằng khi một người cho rằng mình đã bị thiệt hại vì một nghị định, thì đương sự nên tránh tranh chấp với tác giả nghị định, nhưng hãy lo tìm cách thỏa thuận để đạt đến một giải pháp công bình thỏa thuận chung, kể cả có thể nhờ sự trung gian và cố gắng của những người đứng đắn. Nhờ thế, sự tranh chấp có thể tránh được hoặc giải quyết bằng phương thế xứng tiện.
 
(2) Hội Ðồng Giám Mục có thể ra lệnh để trong mỗi giáo phận, phải thành lập một văn phòng hay ủy ban thường trực; dựa theo các quy tắc do Hội Ðồng Giám Mục ấn định, cơ quan này có nhiệm vụ tìm hiểu và đề nghị những giải pháp công bình. Nếu Hội Ðồng Giám Mục không ra chỉ thị cho việc ấy, thì Giám Mục cũng có thể thành lập ủy ban hay văn phòng ấy.
 
(3) Văn phòng hay ủy ban nói ở triệt 2, sẽ hoạt động nhất là khi có đơn yêu cầu thu hồi một nghị định chiếu theo quy tắc ở điều 1734, và khi hạn kỳ để thượng cầu chưa chấm dứt. Tuy nhiên, nếu sự thượng cầu phản kháng một nghị định đã được đệ trình, thì chính Thượng Cấp xét vụ thượng cầu, nếu nhận thấy có hy vọng đạt kết quả tốt, phải khuyến dụ người thượng cầu và tác giả nghị định tìm những giải pháp dựa theo đường lối nói trên.
 
Ðiều 1734: (1) Trước khi thượng cầu, đương sự phải viết đơn yêu cầu chính tác giả bãi bỏ hay sửa đổi nghị định. Việc nộp đơn thỉnh nguyện bao hàm việc xin đình chỉ việc chấp hành nghị định.
 
(2) Phải trình đơn thỉnh nguyện trong hạn kỳ thất hiệu là mười ngày kể từ khi nghị định được cáo tri hợp pháp.
 
(3) Các quy tắc nói ở triệt 1 và 2 không có giá trị:
 
1. trong việc đệ trình thượng cầu lên Giám Mục để kháng lại các nghị định được ban hành do những người hữu trách thuộc quyền của ngài;
 
2. trong việc đệ trình thượng cầu kháng lại một nghị định trong đó quyết định là do Giám Mục ban hành;
 
3. trong việc đệ trình thượng cầu dựa theo các quy tắc ở các điều 57 và 1735.
 
Ðiều 1735: Nếu trong hạn ba mươi ngày từ khi thỉnh đơn được đệ trình theo điều 1734 đến tay tác giả nghị định, mà vị này ra một nghị định mới sửa đổi nghị định trước hay quyết định bác đơn, thì hạn kỳ thượng cầu bắt đầu từ khi nghị định mới được cáo tri; tuy nhiên, nếu trong hạn ba mươi ngày mà tác giả nghị định không quyết định gì cả, thì hạn kỳ sẽ bắt đầu từ ngày thứ ba mươi.
 
Ðiều 1736: (1) Trong những vấn đề mà sự thượng cầu hệ trật đình chỉ việc thi hành nghị định, thì thỉnh đơn nói ở điều 1734 cũng phát sinh hiệu lực tương tự.
 
(2) Trong những trường hợp khác, nếu chính tác giả nghị định không quyết định đình chỉ thi hành trong hạn mười ngày kể từ khi nhận thỉnh đơn như nói ở điều 1734, thì việc đình chỉ có thể được lâm thời yêu cầu nơi Thượng Cấp hệ trật của tác giả. Thượng Cấp này có thể quyết định đình chỉ khi có lý do hệ trọng, tuy phải cẩn thận kẻo phần rỗi các linh hồn vì đó mà bị thiệt hại.
 
(3) Sau khi đã đình chỉ sự thi hành nghị định theo quy tắc ở triệt 2, nếu sau đó sự thượng cầu được đệ trình, thì người phải xét xử thượng cầu chiếu theo quy tắc ở điều 1737, triệt 3, phải quyết định nên xác nhận hay thu hồi việc đình chỉ.
 
(4) Nếu không có sự thượng cầu nào được đệ trình để kháng lại nghị định trong hạn kỳ luật định, thì việc đình chỉ sự thi hành với hiệu lực lâm thời, chiếu theo quy tắc ở triệt 1 hay triệt 2, sẽ đương nhiên chấm dứt.
 
Ðiều 1737: (1) Ai cho rằng mình bị thiệt hại vì một nghị định thì có thể thượng cầu, vì bất cứ lý do chính đáng nào, lên Thượng Cấp hệ trật của người đã ban hành nghị định. Sự thượng cầu có thể nạp tại chính tác giả của nghị định, và vị này phải lập tức chuyển nó lên Thượng Cấp hệ trật.
 
(2) Sự thượng cầu phải được đệ trình trong hạn kỳ thất hiệu là mười lăm ngày. Trong trường hợp nói ở điều 1734, triệt 3, hạn kỳ thất hiệu bắt đầu từ ngày nghị định được cáo tri; trong những trường hợp khác, hạn kỳ bắt đầu theo quy tắc của điều 1735.
 
(3) Kể cả trong những trường hợp mà sự thượng cầu không đương nhiên đình chỉ việc thi hành nghị định, hay việc đình chỉ không được quyết định theo quy tắc ở điều 1736, triệt 2, thì Thượng Cấp, vì lý do hệ trọng, có thể ra lệnh đình chỉ việc thi hành, nhưng phải thận trọng kẻo phần rỗi các linh hồn vì đó mà bị thiệt hại.
 
Ðiều 1738: Người thượng cầu luôn có quyền nhờ luật sư hay người thụ ủy, nhưng phải tránh những trì hoãn vô ích. Hơn nữa, cần phải chỉ định những luật sư chiếu chức vụ nếu người thượng cầu không có luật sư và Thượng Cấp xét thấy là cần thiết. Tuy nhiên, Thượng Cấp luôn có thể ra lệnh cho chính người thượng tố phải trình diện để được thẩm vấn.
 
Ðiều 1739: Thượng Cấp xét xử đơn thượng cầu được phép, tùy trường hợp, không những là xác nhận nghị định hay tuyên bố vô hiệu, mà còn có thể hủy bỏ, thu hồi, hay, nếu Thượng Cấp thấy thích hợp, có thể sửa đổi, bổ túc hay thêm bớt nghị định cũ.
 
Tiết II: Thủ Tục Bãi Chức Hay Thuyên Chuyển Các Cha Sở
 
Chương I: Cách Thức Tiến Hành Trong Việc Bãi Chức Các Cha Sở
 
Ðiều 1740: Khi sứ mệnh mục vụ của một cha sở vì lý do nào đó, dù cho không phải lỗi của ngài, trở thành nguy hại hay ít là không được hiệu quả, thì cha sở đó có thể bị Giám Mục dời đi khỏi giáo xứ.
 
Ðiều 1741: Những lý do chính khiến cho cha sở có thể bị dời đi hợp lệ khỏi giáo xứ là:
 
1. Cách thức hoạt động gây tổn hại hay xáo trộn nặng đến sự hiệp thông trong Giáo Hội;
 
2. Sự thiếu khả năng hay bệnh tật thường xuyên về tâm thần hay thể xác, làm cho cha sở không đủ sức chu toàn xứng hợp các chức vụ của mình;
 
3. Mất sự quý trọng nơi các giáo dân tốt và đứng đắn, hoặc có sự hiềm khích chống lại cha sở, và tình trạng ấy không thể chấm dứt trong một thời gian ngắn;
 
4. Chểnh mảng trầm trọng hoặc vi phạm các bổn phận của một cha sở; sau khi đã cảnh cáo mà không sửa chữa;
 
5. Quản trị bê bối các tài sản khiến cho Giáo Hội bị thiệt hại nặng mà không còn phương cách nào khác để điều trị sự tai hại này.
 
Ðiều 1742: (1) Nếu sau khi đã điều tra, Giám Mục thấy có lý do như nói ở điều 1740, ngài sẽ thảo luận vấn đề với hai cha sở, được Hội Ðồng Linh Mục tuyển chọn vào phận sự này theo lời đề nghị của Giám Mục. Sau đó, nếu nhận thấy phải đi đến quyết định bãi chức, Giám Mục phải lấy tình cha con thuyết phục cha sở từ chức trong hạn mười lăm ngày. Tuy nhiên, để sự bãi chức được hữu hiệu, cần phải nói cho cha sở biết các lý do và luận cứ.
 
(2) Ðối với cha sở thành phần của một dòng tu hay một tu đoàn tông đồ, phải giữ quy định ở điều 682, triệt 2.
 
Ðiều 1743: Sự từ chức của cha sở có thể được thực hiện không những là cách đơn thường, mà còn với điều kiện nữa, miễn là điều kiện ấy có thể được Giám Mục chấp nhận hợp pháp và thật sự được chấp nhận.
 
Ðiều 1744: (1) Nếu cha sở không trả lời trong hạn kỳ đã ấn định, thì Giám Mục phải lặp lại lời yêu cầu và đồng thời phải gia hạn thời gian hữu ích để trả lời.
 
(2) Nếu Giám Mục biết rõ cha sở đã nhận giấy yêu cầu lần thứ hai mà không trả lời, mặc dù không bị ngăn trở gì, hoặc nếu cha sở không chịu từ chức mà không đưa ra lý do, thì Giám Mục sẽ ban hành nghị định bãi chức.
 
Ðiều 1745: Tuy nhiên, nếu cha sở phản đối lý do và các lý do đã viện ra, và đồng thời dẫn dụ các luận cứ mà Giám Mục xét thấy là không đầy đủ, thì để Giám Mục có thể hành động hữu hiệu, cần phải:
 
1. Yêu cầu cha sở, sau khi đọc kỹ các án từ, viết một bản tường trình trong đó ghi tất cả những điều mình phản đối, và mang lại các bằng chứng nghịch lại, nếu có;
 
2. Sau đó, nếu cần, phải bổ túc thẩm cứu và cân nhắc vấn đề cùng với các cha sở như nói ở điều 1742, triệt 1; nếu họ bị ngăn trở thì phải chỉ định những người khác;
 
3. Sau cùng, sẽ quyết định bãi chức cha sở hay không, và phải lập tức ban hành nghị định liên hệ.
 
Ðiều 1746: Giám Mục phải lo dự liệu cho cha sở bị bãi chức một nhiệm vụ khác nếu người có khả năng, hoặc cấp một hưu bổng, tùy trường hợp đòi hỏi và hoàn cảnh cho phép.
 
Ðiều 1747: (1) Cha sở bị bãi chức phải ngưng thi hành chức vụ cha sở, rời bỏ nhà xứ càng sớm càng tốt, và phải giao lại tất cả những gì thuộc về giáo xứ cho ngùi được Giám Mục ủy thác giáo xứ.
 
(2) Tuy nhiên, nếu cha sở đang bệnh và gặp khó khăn để rời khỏi nhà xứ đi nơi khác, thì Giám Mục sẽ để cho người xử dụng nhà xứ, kể cả việc xử dụng độc quyền nữa, bao lâu nhu cầu kéo dài.
 
(3) Bao lâu việc thượng cầu kháng lại nghị định bãi chức còn tiếp diễn, Giám Mục không được bổ nhiệm cha sở mới, nhưng phải lâm thời liệu một vị giám quản giáo xứ.
 
Chương II: Cách Thức Tiến Hành Trong Việc Thuyên Chuyển Các Cha Sở
 
Ðiều 1748: Nếu thiện ích của các linh hồn hay nhu cầu hoặc lợi ích của Giáo Hội đòi hỏi cha sở phải được thuyên chuyển từ giáo xứ mà ngài đang điều khiển rất có kết quả, đến một giáo xứ khác hay đến một nhiệm vụ khác, Giám Mục phải viết giấy cho cha sở đề nghị thuyên chuyển, và khuyến dụ người nên ưng nhận vì lòng mến Chúa và các linh hồn.
 
Ðiều 1749: Nếu cha sở không sẵn sàng theo đề nghị và khuyến dụ của Giám Mục, thì người phải trình bày lý do trên giấy tờ.
 
Ðiều 1750: Mặc dù các lý do đã viện dẫn, nhưng Giám Mục xét thấy không nên thay đổi lý do quyết định của mình, thì cùng với hai cha sở được tuyển chọn như nói ở điều 1742, triệt 1, Giám Mục phải cân nhắc các lý lẽ thuận và nghịch của việc thuyên chuyển. Sau đó, nếu còn xét thấy cần phải thuyên chuyển, Giám Mục sẽ lặp lại các lời khuyến dụ với tình cha con.
 
Ðiều 1751: (1) Sau khi đã thi hành các chặng ấy, nếu cha sở vẫn còn từ chối và Giám Mục nghĩ rằng phải tiến hành việc thuyên chuyển, thì ngài sẽ ban hành nghị định thuyên chuyển và ấn định rằng sau một thời hạn nhất định, giáo xứ sẽ trở thành khuyết vị.
 
(2) Sau khi thời hạn này qua đi vô ích, Giám Mục phải tuyên bố giáo xứ khuyết vị.
 
Ðiều 1752: Trong các vụ thuyên chuyển, cần áp dụng các quy định ở điều 1747, phải giữ lẽ công bình theo giáo luật và đặt trước mắt luật tối cao trong Giáo Hội, đó là phần rỗi các linh hồn.
 
Ðức Thánh Cha sửa đổi giáo luật.
 
Vatican (SD 15-12-2009) - Hôm 15 tháng 12 năm 2009, Ðức Thánh Cha Biển Ðức 16 đã cho công bố Tự Sắc "Omnium in mentem" thay đổi 5 điều khoản trong bộ giáo luật hiện hành, đó là các khoản số 1008, 1009, 1086 triệt 1, 1117 và 1124.
 
Ðiểm mới trong sự thay đổi này là khoản số 1009 có thêm triệt thứ 3 qui định rằng: "Những người chịu chức giám mục hoặc linh mục nhận lãnh sứ mạng và năng quyền hành động trong cương vị (in persona) của Chúa Kitô thủ lãnh, trái lại các phó tế được khả năng phục vụ dân Chúa trong việc phục vụ phụng vụ, Lời Chúa và bác ái".
 
Ðiều này có nghĩa là phó tế không thể thay thế Linh Mục và Giám Mục trong nhiệm vụ cai quản và dẫn dắt cộng đồng Công Giáo. Quyết định này chống lại xu hướng đang lan tràn, đó là tại một số nơi, vì thiếu linh mục, các phó tế vĩnh viễn được biến thành người quản xứ. Các phó tế không bao giờ được hành động "trong cương vị Chúa Kitô" (in persona Christi), cụ thể là không được cử hành thánh lễ, giải tội hay xức dầu bệnh nhân.
 
Mặt khác, trong các khoản giáo luật số 1086 triệt 1, 1117 và 1124, Ðức Thánh Cha bãi bỏ câu "và chưa công khai bỏ Giáo Hội". Tại một số nước như Ðức, Áo, Thụy Sĩ, v.v... có những người làm đơn ra khỏi Giáo Hội để khỏi đóng thuế. Theo luật hiện hành, thì những người ấy không buộc phải giữ giáo luật về việc kết hôn theo phép đạo, việc chuẩn chước hôn nhân dị giáo và hôn nhân hỗn hợp. Từ nay, việc làm đơn rời bỏ Giáo Hội như thế không có hiệu lực về giáo luật đối với hôn phối nữa. Và như thế có nghĩa là mọi người phải tuân giữ khoản 11 của giáo luật.
 
Ðức Thánh Cha đã đi tới quyết định trên đây sau khi nghe ý kiến của Bộ giáo lý đức tin, Hội đồng Tòa Thánh về các văn bản luật, cũng như các Hội Ðồng Giám Mục liên hệ. Tiến trình sửa đổi các khoản giáo luật liên hệ tới hôn phối như nói trên đây đã bắt đầu từ 10 năm nay. (SD 15-12-2009).



 
 G. Trần Ðức Anh, OP( Theo Radio Vatican)

Nguồn: http://gpcantho.com/ArticlesDetails.aspx?ArticlesID=458#_Toc292198790
TAGS:
CHIA SẺ BÀI VIẾT