
Giáo lý 10 điều răn - Điều răn 8 - Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Giáo Lý Đức Tin
Điều Răn Thứ Tám Chớ Làm Chứng Dối
Mến chào anh chị em!
Bài giáo lý hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu Lời thứ tám trong Mười Lời: “ Ngươi không được làm chứng dối hại người ”.
Sách Giáo lý dạy, Điều răn này “cấm xuyên tạc chân lý trong các mối tương quan với tha nhân” (số 2464). Sống với những thông tin dối trá là điều nghiêm trọng, vì nó cản trở các mối tương quan và do đó cản trở luôn cả tình yêu thương. Nơi nào có sự dối trá, nơi đó không có tình yêu; nơi đó không thể có tình yêu. Và khi chúng ta nói đến việc giao tiếp giữa con người với nhau, chúng ta không chỉ nói đến ngôn từ, nhưng bao hàm cả cử chỉ, thái độ, thậm chí sự thinh lặng và sự vắng mặt. Một con người nói bằng tất cả những gì người ấy là và làm. Chúng ta luôn luôn giao tiếp với nhau. Tất cả chúng ta đều sống qua giao tiếp và chúng ta luôn trong tình trạng dao động giữa sự thật và dối trá.
Nhưng nói sự thật nghĩa là gì? Nghĩa là chân thành? Hay chính xác? Thật ra, những điều đó thì chưa đủ, vì người ta có thể phạm sai lầm cách chân thành, hay có thể diễn đạt chính xác trong từng chi tiết nhưng không nắm bắt được ý nghĩa của toàn bộ sự việc. Đôi khi chúng ta lại tự biện minh bằng cách nói: “Nhưng tôi đã nói những gì tôi cảm nhận!” Vâng, nhưng bạn đã trình bày quan điểm của mình như là chân lý tuyệt đối. Hoặc: “Tôi chỉ nói sự thật!” Có thể, nhưng bạn lại tiết lộ những vấn đề cá nhân hay đời tư của người khác. Tin đồn thất thiệt phá hủy khủng khiếp sự hiệp thông qua những lời phê bình không đúng lúc hay thiếu tế nhị! Quả thật, tin đồn thất thiệt giết chết người khác, và thánh Giacôbê Tông đồ đã nói về điều đó trong Thư của ngài. Những ai tung tin đồn thất thiệt là những kẻ giết người: họ giết những người khác, vì miệng lưỡi cũng giết người như một con dao. Hãy cẩn thận! Những người nhiều chuyện thì cũng giống như những kẻ khủng bố, vì miệng lưỡi của họ ném trái bom ra, rồi họ bỏ đi cách bình thản, nhưng những gì họ nói qua quả bom đó lại hủy diệt thanh danh của những người khác. Đừng quên điều này: tin đồn thất thiệt sẽ giết chết người khác.
Vậy, sự thật là gì? Đây là câu mà Philatô đã hỏi, trong khi Chúa Giêsu kiện toàn Điều răn thứ tám trước mặt ông (x. Ga 18,38). Quả thật, những lời “ngươi không được làm chứng dối hại người” thuộc về ngôn ngữ tòa án. Các sách Tin Mừng đạt đến đỉnh điểm trong trình thuật về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, Tử nạn và Phục sinh; và đó là trình thuật về một vụ án, về việc thi hành bản án và về một hệ quả chưa từng nghe thấy.
Khi được Philatô chất vấn, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật” (Ga 18, 37). Và Chúa Giêsu đã thực hiện “lời chứng” ấy qua cuộc thương khó và cái chết của Người. Thánh sử Máccô kể lại rằng “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!”.” (Mc 15,39). Thật vậy, vì Người đã kiên trung. Người đã kiên trung: qua cách thức Người chết, Chúa Giêsu biểu tỏ chính Chúa Cha, biểu tỏ tình yêu thương xót và trung tín của Ngài.
Sự thật được nhận ra cách trọn vẹn nơi chính con người của Chúa Giêsu (x. Ga 14,6), và trong cách thức sống và chết của Người, vốn là hoa trái của mối tương quan với Chúa Cha. Người sống đời mình trong tư cách người con của Thiên Chúa. Chính Người, Đấng Phục sinh, trao ban sự sống ấy cho chúng ta, bằng việc gửi Chúa Thánh Thần, Thần Chân lý, đến chứng thực cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,16).
Qua mỗi hành động của mình, con người hoặc khẳng định sự thật hoặc chối từ sự thật. Từ những tình huống nhỏ bé của đời sống thường nhật đến những chọn lựa đòi hỏi nhất. Nhưng lý lẽ luôn giống nhau: những gì ông bà và cha mẹ dạy chúng ta khi họ bảo chúng ta đừng nói dối. Chúng ta hãy tự hỏi chính mình: là Kitô hữu, những hành động, lời nói và chọn lựa của chúng ta chứng thực cho sự thật nào? Mỗi người có thể tự hỏi: phải chăng tôi là chứng nhân của sự thật, hay ít nhiều tôi là kẻ dối trá ẩn núp dưới bộ mặt thật thà? Mỗi người hãy tự hỏi chính mình. Là Kitô hữu, chúng ta không phải là những người ngoại thường. Tuy nhiên, chúng ta là những người con của Cha trên trời, Đấng nhân lành và không làm chúng ta thất vọng, Đấng gieo vào tâm hồn chúng ta tình yêu tha nhân. Sự thật này không phải được biểu lộ bằng quá nhiều lời nói suông; nhưng bằng đời sống, lối sống, và được nghiệm thấy trong mỗi hành động nhỏ bé của chúng ta (x. Gc 2,18). Anh này là một người sống thật, và chị kia là một người sống thật: người ta có thể nhận ra điều đó. Nhưng làm sao có thể nhận ra như thế, nếu họ không nói ra. Thưa bởi vì họ hành xử cách chân thật: họ nói sự thật, họ hành động cách chân thật. Đó là cách thức tốt cho chúng ta noi theo.
Sự thật chính là sự mặc khải tuyệt diệu về Thiên Chúa, về tình Phụ tử của Ngài; đó là tình yêu vô bờ bến của Ngài. Sự thật ấy tương hợp với lý trí con người, nhưng quá đỗi siêu vượt lý trí con người, vì sự thật ấy là ân huệ được ban tặng cho trái đất và nhập thể trong Đức Kitô chịu đóng đinh và được phục sinh; sự thật ấy trở nên hữu hình nơi những ai thuộc về Đức Kitô và phản chiếu những phẩm chất giống như Người. Ngươi không được làm chứng dối hại người nghĩa là sống như con cái của Thiên Chúa, không bao giờ tự mâu thuẫn với chính mình, không bao giờ nói dối; sống như con cái của Thiên Chúa, bằng cách làm cho mỗi hành động của mình phản chiếu sự thật tuyệt đỉnh này: Thiên Chúa là Cha và chúng ta có thể tin tưởng Ngài. Tôi tin Thiên Chúa: đó là sự thật vĩ đại . Từ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa - Đấng là Cha và yêu thương tôi, yêu thương chúng ta - sẽ phát xuất sự thật nơi mỗi chúng ta, như những người sống thật chứ không phải những kẻ dối trá./.