
Bình vẫn chưa hề cũ: Mệnh lệnh và di chúc đi cùng năm tháng

(Một thoáng nhìn về văn kiện “MONITA AD MISSIONARIOS - NHẮN NHỦ CÁC THỪA SAI” của Công Đồng Yuthia 1664)
PHẦN MỘT: MỆNH LỆNH VÀ DI CHÚC ĐI CÙNG NĂM THÁNG
Tác giả: Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
Mục lục
DẪN NHẬP: VẪN TRÊN DÒNG SÔNG ĐÓ
PHẦN MỘT: MỆNH LỆNH VÀ DI CHÚC ĐI CÙNG NĂM THÁNG
1. Đã có một “từ ngữ” mang nhiều ý nghĩa phong phú
2. Từ “mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập”
3. Đến các Tông Đồ và Giáo Hội thuở ban đầu
4. Phương thế truyền giáo cốt yếu của Đấng Sáng Lập: LÀM CHỨNG
II. NHỮNG CẬP NHẬT ĐỊNH HƯỚNG TRUYỀN GIÁO THỜI HIỆN ĐẠI
1. Toàn thể Dân Chúa “đến với muôn dân” (Công Đồng Vaticano II với Ad Gentes).
2. “Hồi sinh” sau Vaticano II: Từ Evangelii Nuntiandi (1975) đến Redemptoris Missio (1990):
DẪN NHẬP: VẪN TRÊN DÒNG SÔNG ĐÓ
Khi bàn đến sự biến chuyển đổi thay của vũ trụ vạn vật, của lịch sử và xã hội con người…, người ta hay nại đến lời phát biểu và cũng là một “định đề triết học” thời danh của một triết gia thời cổ đại phương Tây, Heraclitus[1]: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”[2]. Bởi vì “dòng sông hôm nay, bây giờ” không còn là “dòng sông cũ của hôm qua”; và “người tắm hôm nay”, một cách nào đó, cũng không còn nguyên vẹn y chang như “kẻ tắm hôm qua ngày trước”.
Định đề đó có thể “có lý” nếu áp dụng vào lãnh vực thuần tuý vật chất, sinh vật hữu hạn… như tác giả Thánh Vịnh đã từng cảm nhận:
“Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.” (Tv 89,5-6).
Tuy nhiên, nguyên tắc này, định đề “biến dịch” nầy của Heraclitus không thể áp dụng vào lãnh vực niềm tin, vào chân lý cứu độ; nhất là không thể áp dụng cho Thiên Chúa[3], Đấng mà cũng chính tác giả Thánh vịnh trên đã ca tụng rằng:
“Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên,
địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành,
Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời.” (Tv 89,1-2);
hay nơi một Thánh vịnh khác:
“Xưa Chúa đã đặt nền trái đất,
chính tay Ngài tạo tác vòm trời.
Chúng tiêu tan, Chúa còn hoài,
chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao.
Ngài thay chúng khác nào thay áo,
nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên;
tháng năm Ngài vẫn triền miên.” (Tv 101,26-28).
Vâng, Thiên Chúa của Israel là “Thiên Chúa vĩnh hằng”, là “Đấng Hằng hữu”, không cũ không mới, như chính Ngài đã mạc khải cho vị “Đại Tiên Tri Môsê” trong “Khải tượng” “Bụi gai bốc cháy”: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng Hiện Hữu’ sai tôi đến với anh em.” (Xh 3,14). Khi tiến trình mạc khải đến “hồi viên mãn” (Dt 1,1-2), thì Đấng “Thiên Chúa nhập thể làm người” (Ga 1,14), Đấng tự xưng rằng “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30), cũng đã xác nhận “bản chất hằng hữu”, của mình ngay trong bi kịch Thương Khó: “Người bảo họ: Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28); một sự “hằng hữu”, bất biến…, mà trí óc con người chỉ có thể diễn tả được qua phạm trù “An-pha và Ô-mê-ga” trong sách Khải Huyền của thánh sử Gioan: Người lại phán với tôi: “Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng…” (Kh 21,6).
Và điều này có liên quan gì tới Hội Thánh?
Có đấy! Trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một “Giáo Hội phổ quát được thành lập”; đó là cộng đoàn bao gồm “những ai tin vào Đức Kitô”[4], “vừa là cộng đồng được tổ chức theo cơ chế phẩm trật, vừa là Nhiệm Thể Đức Kitô, là đoàn thể hữu hình và cũng là cộng đoàn thiêng liêng, là Giáo Hội tại thế đồng thời cũng là Giáo Hội dư tràn của cải trên trời…”[5].
Về mặt “cơ chế, hữu hình”, Giáo Hội phải chịu những tác động của không gian và thời gian; phải lớn lên, cập nhật, phát triển, đối thay…; nhưng về mặt “Nhiệm Thể, thiêng liêng”, Giáo Hội luôn trung thành với căn tính, trước sao sau vậy, “chỉ có một Giáo Hội của Đức Kitô mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”[6].
Nếu ví Giáo Hội như một “Dòng sông”, thì “Dòng sông” đó có cội nguồn chính là “Thiên Chúa Ba Ngôi”[7], “được chuẩn bị cách diệu kỳ nơi lịch sử dân Israel và Cựu ước, được thiết lập vào thời kỳ sau hết, được tỏ lộ trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống và sẽ được hoàn tất trong vinh quang vào lúc kết tận thời gian”[8].
Giáo Hội tại Việt Nam cách đây hơn bốn thế kỷ (nếu lấy cột mốc năm 1533), hay chính ngay lúc này, chắc chắn đang ở trong giai đoạn cuối cùng “sẽ được hoàn tất trong vinh quang…” như Công Đồng Vaticanô II vừa nói ở trên; và dĩ nhiên, cho dù là một “Giáo Hội địa phương” non trẻ và số tín hữu vẫn thuộc thành phần thiểu số, Giáo Hội Việt nam vẫn có đầy đủ phẩm chất cơ bản của Giáo Hội Mẹ: vừa hữu hình vừa thiêng liêng; vừa trần tục vừa nhiệm mầu.
Chính trên cái “phông nền” của lộ trình lịch sử vừa “hữu hình” vừa “thiêng liêng”, vừa “thế tục” vừa “nhiệm mầu” đó, chúng ta thử tìm về những cách vận dụng “mệnh lệnh truyền giáo của Đức Kitô” vào bối cảnh Á Châu trong thế kỷ 17 của Toà Thánh và của các Thừa Sai. Nói cách khác, đây là cuộc “trở về nguồn” để cùng đọc, suy tư và rút ra những định hướng thiết thực mà văn kiện MONITA AD MISSIONARIOS” (NHẮN NHỦ CÁC THỪA SAI) của Công Đồng Yuthia 1664 đã để lại cho Dân Chúa Việt Nam hôm nay (và cả Á Châu) như một gia tài quý báu. Chắc chắn, tư liệu lịch sử liên quan đến buổi đầu loan báo Tin Mừng tại Á Châu nầy sẽ chỉ cho chúng ta những con đường, những định hướng mục vụ truyền giáo mang giá trị “vượt thời gian”; nhưng đồng thời cũng sẽ giúp chúng ta khám phá những cách thế, phương tiện mà thế hệ cha ông đã sử dụng như những công cụ hữu hiệu để loan báo Tin Mừng, cho dù hôm nay đã không còn thích dụng.
Dĩ nhiên, đây không là thái độ “quyến luyến không suy xét, không đắn đo và phi lý vào quá khứ”; hay là việc “đặt bước chân của chúng ta vào những dấu chân của người đi trước”[9]; đơn giản: đây chính là để “hiểu rõ hơn về lịch sử”; hay nếu phải dùng một hình ảnh, thì đó là chấp nhận làm “những người lùn đứng trên vai những người khổng lồ” để may ra có thể khám phá được chân lý, phát hiện được những viên ngọc quý dưới lớp bụi thời gian[10].
PHẦN MỘT: MỆNH LỆNH VÀ DI CHÚC ĐI CÙNG NĂM THÁNG
Trong “Thư đệ trình Đức Thánh Cha Clément IX” của hai Giám Mục Tông toà François Pallu và Pierre Lambert de la Motte, chúng ta đọc thấy một đoạn trong phần “giới thiệu nội dung” tài liệu MONITA, như sau: “Chúng con quan tâm đến việc cải thiện cách truyền bá Tin Mừng, dựa theo cách thức tuyệt diệu của Chúa Kitô và các Tông đồ (ch. II, III và IV)…”[11].
Chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu kĩ hơn nội dung trên trong PHẦN HAI, khi đào sâu chính nội dung và bố cục của MONITA. Ở đây, chỉ muốn dừng lại như một “chút thoáng qua” về những cách thức truyền bá Tin Mừng “tuyệt diệu của Chúa Kitô và các Tông Đồ” như cách nhìn nhận của hai vị “Chủ chăn Tiền bối” trên.
I. TỪ MỘT XUẤT PHÁT ĐIỂM
1. Đã có một “từ ngữ” mang nhiều ý nghĩa phong phú
Trong khoa “Thần học về Truyền Giáo” của Giáo Hội, nguyên vấn đề “từ ngữ” thôi cũng là một “câu chuyện dài” phức tạp[12]. Thật vậy, các từ ngữ như Sứ vụ truyền giáo (Missio), Rao giảng Tin Mừng (Praedicare Evangelium), Dạy dỗ muôn dân (Docere omnes gentes), Truyền bá đức tin (Propaganda Fide), Phúc âm hoá các dân tộc (Evangelizatio Populorum), Loan Tin Mừng, Phúc âm hoá (Evangelizatio), Tân Phúc Âm hoá (Nova Evangelizatio)… lần lượt xuất hiện qua dòng thời gian, và đã được hiểu, được sử dụng, kiện toàn… trải dài theo năm tháng, cùng với những thuyên giải, định nghĩa, quảng diễn thích dụng.
Để thấy rõ hơn, xin đơn cử một thí dụ: chỉ trong một cuốn sách - “TỰ ĐIỂN CÔNG GIÁO” của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – đã có hai mục từ, có thể nói được, có “nội hàm” không khác nhau bao nhiêu, hay chỉ là “hai mặt của một vấn đề”, nhưng được diễn đạt bằng nhiều cách: mục từ “TRUYỀN GIÁO”[13], và mục từ “PHÚC ÂM HOÁ”[14]. Riêng chỉ trong mục từ “TRUYỀN GIÁO” thôi, thì chúng ta có thể “lọc” ra được “một lô” định nghĩa[15]. (Xin trích):
- “Truyền giáo là sứ mệnh cơ bản của Hội Thánh, tức là loan báo Phúc Âm cho tất cả mọi dân tộc, theo mệnh lệnh Chúa Kitô…”
- “Truyền giáo là giới thiệu niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của Hội Thánh vào Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, yêu thương và cứu độ muôn người.”
- “Truyền giáo là làm cho loài người được tham dự, hiệp thông trong Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa;…”
- (Truyền giáo) “làm cho Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô thấm nhập mọi chiều kích cuộc sống…
- “Truyền giáo chỉ công việc truyền bá đức tin Kitô giáo và việc thành lập các giáo đoàn mới nơi các dân tộc hay nhóm người chưa tin vào Chúa Kitô;…”
- (Truyền giáo là) “làm cho Phúc Âm thấm nhập vào trong nền văn hoá các dân tộc;…”
- (Truyền giáo là việc) “một số người có ơn gọi đặc biệt và được Hội Thánh sai đi loan báo Phúc Âm cho các dân tộc chưa nhận biết Chúa Kitô”… (Hết trích).
2. Từ “mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập”
Sau hai ngàn năm, cho dầu khái niệm, ý nghĩa, luận đề, chuyên đề “truyền giáo” được thuyên giải, định nghĩa, quảng diễn thế nào mặc lòng, thì điểm xuất phát uyên nguyên cố định vẫn là từ “mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập”[16], của chính Chúa Kitô, nhất là “mệnh lệnh” sau biến cố Phục Sinh, trước khi “Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”.
2.1. Dấu chứng của Tin Mừng
- Mệnh lệnh trong Tin Mừng Máccô 16,15: Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
- Mệnh lệnh trong Tin Mừng Matthêô 28,19-20: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
- “Lệnh lên đường” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 10, 1.5-14; Mc 6,7-13; Lc 9,1-6): Bản văn nầy đặc biệt liên quan đến “tư cách, thái độ, hành trang…” của “nhà truyền giáo” mà không ít tác giả gọi là “lệnh lên đường”: Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi. (Lc 9,1-6).
Có thể nói được, khi Hội Thánh (hay bất cứ ai) muốn trình bày, cắt nghĩa… về “Truyền giáo” đều phải trở về với các “mệnh lệnh của Đấng Sáng lập” được Tin Mừng lưu giữ.
2.2. Cội nguồn của “mệnh lệnh”
Dĩ nhiên, để có được hay “đi tới” mệnh lệnh nầy, là cả một công trình kỳ diệu phát xuất từ “ý định của Thiên Chúa”, như cách cắt nghĩa của Sắc lệnh Truyền giáo (Ad Gentes): “Ý định nầy tuôn trào từ “mạch suối yêu thương” nghĩa là tình yêu của Thiên Chúa Cha, Đấng chính là nguyên lý tối thượng, bởi Ngài, Chúa Con được sinh ra, đồng thời cũng bởi Ngài và qua Chúa Con, nhiệm xuất Chúa Thánh Thần, cũng là Đấng vì lòng nhân từ thương xót vô biên nên khi tạo dựng và hơn nữa khi ưu ái mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống và vinh quang của Ngài… để Ngài được vinh hiển và chúng ta được hạnh phúc…” (AG số 2).
Riêng hai chữ “chúng ta” mà Sắc lệnh Truyền Giáo vừa nói tới có nghĩa là: “Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Ngài, không chỉ từng cá nhân không liên quan gì đến nhau, nhưng còn liên kết họ thành một đoàn dân duy nhất, trong đó con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi được quy tụ về một mối” (AG số 2).
Vâng, nói cho cùng, truyền giáo chính là làm cho “ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi toàn thể nhân loại” được hiện thực (AG số 3); để “Lời Chúa được lan rộng và toả sáng” (2 Ts 3,1) và để “Nước Chúa được công bố và thiết lập khắp trần gian” (AG số 1); để “giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và sa tan” và để “phục hồi vạn vật trong Đức Kitô” (AG số 3); để “rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó, chữa lành những tâm hồn đau khổ, loan báo sự giải thoát cho những người bị giam cầm, và cho những kẻ đui mù được nhìn thấy” (Lc 4,18); và để “Con Người đến tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất” (Lc 19,10) (AG số 3)…
3. Đến các Tông Đồ và Giáo Hội thuở ban đầu
Và như đã nói ở trên, “xuất phát điểm của Truyền Giáo” chính là “Mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập”. Tuy nhiên, mệnh lệnh đó lại nhắm trực tiếp đến các Tông Đồ và các môn sinh được chính Đức Kitô chọn gọi, sống với Ngài, được Ngài dạy dỗ, sai đi rao giảng, chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài…(x. Mc 3,13; AG số 5).
Sau biến cố “Chúa Thánh Thần Hiện Xuống” dịp lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ bắt đầu thi hành “sứ vụ truyền giáo” đúng như mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh: “Hãy đi rao giảng…, làm phép rửa…”.
3.1. Phêrô và “Nhóm Mười Hai” khởi động truyền giáo
Ngay từ buổi đầu, sách Công vụ Tông đồ đã cho thấy cách các Tông đồ thực thi mệnh lệnh của Chúa Kitô với hai hoạt động chính: “các con hãy… giảng dạy…; làm phép rửa…”. Đó chính là nội dung cốt lõi của “Sứ điệp sơ truyền” (Kerygma); cũng là “nội dung và nền tảng cốt yếu” của công cuộc truyền giáo, Phúc âm hoá hay “Tân Phúc Âm hoá” của Giáo Hội muôn nơi muôn thuở
- Giảng dạy muôn dân(Docete omnes gentes)[17]: Bấy giờ ông Phêrô đứng chung với nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng:…;
- Làm phép Rửa (Baptizantes eos): “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần”… Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,14-41).
Phần đầu của sách Công vụ Tông đồ, có thể nói được, là “Công vụ Phúc Âm hoá của Thánh Phêrô”. Chính nơi những trang đầu tiên đó, chúng ta gặp một “nhà truyền giáo Phêrô” hùng biện, can đảm, xông xáo… rao giảng và làm chứng về Đức Kitô tử nạn – phục sinh, khiến tầng lớp lãnh đạo Do Thái giáo phải e dè, kinh ngạc, tìm cách loại trừ (x. Cv 4,1-21; 5,21-33…).
3.2. Công cuộc truyền giáo của Phaolô, Tông Đồ dân ngoại
Phaolô và công cuộc truyền giáo của Ngài đóng một vai trò tối quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển Kitô giáo trên toàn thế giới; đến đổi có người dám ví von cách “thậm xưng”: “Không phải Chúa Giêsu mà chính Phaolô mới là vị sáng lập thật sự của Kitô giáo”[18]. Vì là một “chuyên đề sâu rộng” nên đây chỉ là một cuộc “cỡi ngựa xem hoa”.
Sau đây, xin đan cử một đôi trích đoạn Lời Chúa liên quan đến một “Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại”:
- Truyền giáo chính là lẽ sống, là sứ mệnh tối hậu: “Vì nếu tôi rao giảng Tin Mừng, thì không có lý do gì để tôi tự hào, mà đó là một nhiệm vụ tôi phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
- Truyền giáo là chia sẻ Tin Mừng của Thiên Chúa và cả cuộc sống mình: “Chúng tôi đã yêu mến anh em tha thiết, đến nỗi sẵn sàng chia sẻ với anh em, không những chỉ Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả chính mình chúng tôi, vì anh em đã trở nên rất thân yêu đối với chúng tôi’ (1 Ts 2,8).
- Truyền giáo là chia sẻ chính “bằng chứng xác thực của Thần Khí” chứ không quảng bá cái “tôi”: “Thưa anh chị em, khi tôi đến với anh chị em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa… Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh chị em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1 Cor 2,1-5).
- Truyền giáo là cậy vào sức mạnh của Chúa để muôn dân nghe biết Tin Mừng: “Lần thứ nhất khi cha phải ra biện hộ trước tòa án, chẳng có ai bênh vực cha. Tất cả đều đã bỏ rơi cha. Con đừng chấp nhất với họ. Nhưng có Chúa ở bên cạnh cha, Người đã ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.” (2 Tm 4,16-17)…
Nếu có thời gian, xin mở sách Công vụ và cùng đọc và suy niệm “ba cuộc truyền giáo của ngài” (x. Cv 13-14; Cv 15-18; Cv 18-21).
3.3. Cả Hội Thánh đã lên đường
Qua sách Công vụ Tông Đồ và các Thư mục Tân Ước khác, chúng ta có thể nói được “cả Hội Thánh đã lên đường” trong buổi bình minh của Thiên Niên kỷ thứ nhất. Ngoài các gương mặt nổi trội như Phêrô, Gioan, Giacôbe, Phaolô, Barnaba…, chúng ta còn thấy những Phó tế như Stêphanô - Vị Tử đạo tiên khởi của Kitô giáo, Philipphê…; và tiếp sau đó là những Luca, Máccô, Timôthê, Titô…; các cộng đoàn như Giêrusalem, Antiokia, Côrintô, Têsalônica…
Vâng, công cuộc truyền giáo không phải của riêng ai mà của cả một đoàn dân “loan truyền kỳ công của Thiên Chúa”, như lời quả quyết của Thánh Phêrô: “Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2,9).
Và sở dĩ cộng đoàn Giáo Hội sơ khai “thành công trong việc truyền giáo”, đã thuyết phục được nhiều người tin Chúa Giêsu và gia nhập Hội Thánh, phải chăng nhờ các yếu tố then chốt nầy: hiệp nhất, yêu thương, chuyên chăm Lời Chúa, nguyện cầu, trung thành với Thánh Thể: Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. (Cv 2,42-47).
4. Phương thế truyền giáo cốt yếu của Đấng Sáng Lập: LÀM CHỨNG
Đấng trao sứ mệnh truyền giáo cũng là Đấng ra những chỉ thị, định hướng cần thiết như chúng ta đọc thấy trong “bản Lệnh Lên đường” của các Tin Mừng Nhất lãm: Mt 10, 1.5-14; Mc 6,7-13; Lc 9,1-6; và dĩ nhiên, đó cũng là “Kim Chỉ Nam truyền giáo” tiên khởi mẫu mực cho Giáo Hội muôn nơi, muôn thuở.
Tuy nhiên, trước hết và trên hết, chân dung của “người truyền giáo”, của kẻ “Loan báo Tin Mừng” theo đúng nguyện vọng và ước muốn của “Đấng Sáng Lập” lại là “CHỨNG NHÂN”: “Chính anh em là chứng nhân về những điều nầy” (Lc 24,48); “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Và rồi, trước những “biến động dồn dập” ở Giêrusalem trong “cái thuở ban đầu” ấy, tưởng rằng các môn sinh của Chúa Kitô đã quên bẵng ước muốn của Thầy; nhưng không, họ vẫn nhớ như in:
- Thánh Phêrô ngay từ buổi đầu Giáo Hội đã trung thành với “kim chỉ nam” đó: “Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh” (Cv 1,22); “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần…” (Cv 5,30-31)…
- Thánh Phaolô cũng đã xác nhận việc “làm chứng” của các Tông Đồ: “Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31) và của chính mình: “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,24); sách Công Vụ Tông Đồ còn minh xác cả về “địa chỉ làm chứng” của Phaolô: Đêm ấy Chúa đến bên ông Phaolô và nói: “Hãy vững lòng ! Con đã long trọng làm chứng cho Thầy ở Giêrusalem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rôma nữa” (Cv 23,11)…
Cốt lõi là như thế; còn thể hiện, vận dụng việc “làm chứng” như thế nào thì, có thể nói được, toàn bộ Lời Chúa là “ánh sáng dẫn lối đưa đường” (Tv 119,105) cùng với sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần trải qua các thời đại, các thế hệ con người, các nền văn hoá, các trực giác khôn ngoan, các phát kiến sáng tạo, các biến cố thăng trầm của lịch sử…
Vâng, câu chuyện “đưa thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4) là một “thiên anh hùng ca” bi tráng trải dài qua hai thiên niên kỷ; và nơi đó không chỉ được dệt đan hoà điệu bởi các Thánh nhân, các vị Giáo hoàng, Giáo phụ… lừng danh; mà còn được góp phần của cả những giáo dân âm thầm, những thừa sai thành tâm thiện chí, ngay cả trong các Giáo Hội anh em ngoài Công giáo (Chính Thống, Tin Lành, Anh Giáo…); có khi là các tội nhân hay cả những kẻ chống lại Tin Mừng… Đó cũng là một bức tranh hùng vĩ đan xen muôn gam màu, chất liệu…, không chỉ rực rỡ oai hùng của thành công, thắng lợi; nhưng cũng chất chứa rất nhiều những đau thương, bách hại, máu xương, nước mắt…
Trong bài khảo luận nhỏ dẫn vào văn kiện MONITA nầy, chỉ xin được ghi lại vài điểm nhấn truyền giáo từ Công Đồng Vatican II đến hôm nay.
II. NHỮNG CẬP NHẬT ĐỊNH HƯỚNG TRUYỀN GIÁO THỜI HIỆN ĐẠI
Trong cuộc “lữ hành đức tin” của Dân Chúa suốt hai ngàn năm, Truyền Giáo là một “câu chuyện dài đầy lâm ly bi đát”; có những thành công vang dội, cũng như đầy dẫy những tháng ngày “xương rơi máu đổ”; có những “thăng trầm bể dâu” nhưng cũng đầy những biến thiên chẳng ngờ…, mà cuộc “lật ngược thế cờ cách ngoạn mục liên quan đến đế quốc Rôma” là một bức minh hoạ rõ nét và sống động cho câu chuyện này: chính quan chức Rôma đã lên án đóng đinh Chúa Cứu Thế vào đầu thế kỷ thứ nhất tại Giêrusalem; và cũng chính các hoàng đế Rôma, nhất là thời bạo chúa Nêrô, đã bách hại tàn khốc các Kitô hữu tại thủ phủ Rôma và trên toàn đế quốc…; thì cũng chính một hoàng đế Rôma – Constantino – vào đầu thế kỷ thứ tư (312), đã quyết chọn Kitô giáo làm quốc giáo[19] !
Cho đến thế kỷ 21 nầy, không tính các anh chị em Kitô hữu thuộc Chính Thống giáo, Tin Lành và Anh Giáo, thì Giáo Hội Công Giáo Rôma đã có số tín hữu vượt xa con số “nghìn triệu”; tức trên dưới 1/6 dân số thế giới. Để có được thành quả “những hạt lúa vàng ắp đầy trong kho lẫm nầy”, nhất là, như nhận định của tác giả Richard Holloway, để “trở thành một thiết chế quyền lực bậc nhất trên địa cầu, ngay cả các vị vua cũng phải nép mình trước uy quyền đó”[20], Giáo Hội đã phải nỗ lực truyền giáo bằng một cái giá thực sự đắt đỏ; đắt đỏ bởi trí tuệ, công sức, máu xương của con người và nhất là “ân sủng của Thiên Chúa”. Vâng cái giá của việc “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Vì trọng tâm của bài khảo luận nầy chính là văn kiện MONITA của Công đồng Yutthia 1664, nên ở đây chỉ xin nêu ra vài “điểm nhấn quan trọng” trên lộ trình hướng dẫn mục vụ truyền giáo của thời hiện đại, như là một “bức phông nền cơ bản” để làm sáng lên những giá trị vượt thời gian của MONITA.
1. Toàn thể Dân Chúa “đến với muôn dân” (Công Đồng Vaticano II với Ad Gentes).
Khởi đi từ “khẩu lệnh lên đường” được Đức Kitô ban ra, có thể nói được, cuộc hành trình xuyên suốt hai ngàn năm của Hội Thánh chính là cuộc lên đường không ngừng nghỉ để “đến với muôn dân”. Mỗi thời đại với mỗi hoàn cảnh, tuỳ điều kiện không gian cũng như thời gian, địa lý hay văn hoá, chính trị hay kinh tế…, công cuộc “đến với muôn dân” luôn mang những nét đặc trưng và để lại những dấu ấn…, làm nên cả một kho tàng kinh nghiệm phong phú cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội.
Vào thời đại của chúng ta, đặc biệt, vào hậu bán thế kỷ 20, một biến cố đức tin và cũng là một dấu ấn lịch sử sâu đậm nhất của Hội Thánh Công Giáo đó chính là Công Đồng Vaticano II[21], mà tinh thần và định hướng vẫn còn tác động lâu dài trên toàn thể sinh hoạt của Giáo Hội, trong đó, sinh hoạt “loan báo Tin Mừng” là dễ nhận thấy nhất. (x. CÁC MÔ HÌNH TRUYỀN GIÁO TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO trong tác phẩm “Thần học truyền giáo cho hôm nay”)[22].
Thật vậy, Vatican II, theo ý nguyện ban đầu của Đức Gioan XXIII, Vị Giáo Hoàng được ơn soi sáng khai mở Công Đồng, đó là một Công Đồng mang tính “mục vụ”[23], như một giai thoại được lưu lại: “Khi được hỏi tại sao Đức Giáo Hoàng muốn triệu tập Công Đồng, ngài hóm hỉnh trả lời, trong khi lấy tay mở cửa sổ: “Tôi muốn toang các cửa sổ Giáo Hội để cho chúng ta nhìn ra được và công chúng nhìn vào được”. Trong ý hướng đó, Đức Gioan XXIII mong muốn là Giáo Hội cần phải nhìn vào “những dấu chỉ của thời đại”, để có thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của nhân loại. Ngài sử dụng một từ ngữ của người Ý là “aggiornamento”, có nghĩa là “cập nhật hóa”, để nói đến tính cấp bách của Giáo hội lúc này là mở ra với toàn thế giới”[24]. (x. Những điều đã xảy ra tại Công Đồng Vatican II)[25].
Điểm nhấn đầu tiên về truyền giáo của Công Đồng Vatican II chính là văn kiện: Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội – Ad Gentes (AG)[26], một văn kiện mang tính “thực hành” và “áp dụng” các “định hướng mục vụ của Công Đồng Vaticano II” như Lời Giới thiệu văn kiện đã trình bày: “Sắc Lệnh này khảo luận các vấn đề lý thuyết cũng như thực hành về hoạt động truyền giáo trong thời đại ngày nay. Ðồng thời, Sắc Lệnh cũng có tính cách rất thần học, nghĩa là các chủ đề chính cũng như các vấn đề truyền giáo luôn luôn được đặt trong tương quan với nguồn mạc khải. Những giải quyết và những tiêu chuẩn thực tế đều có nền tảng thần học vững chắc, thường trực tiếp dựa trên những bản văn Thánh Kinh. Mọi hoạt động truyền giáo của Giáo Hội bắt nguồn từ tình yêu giữa Ba Ngôi và là một hiệu quả, hay có thể nói là sự nối tiếp sứ mạng của các Ngài, là sự hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong thế giới, Ðấng muốn mọi người được cứu rỗi”[27].
Và đây, có thể nói được, là áng văn đẹp nhất của văn kiện diễn tả sứ vụ truyền giáo được Giáo Hội thực thi “theo mệnh lệnh của Đấng Sáng Lập”: “Vì thế, vâng lệnh Chúa Kitô đồng thời được ân sủng và tình yêu Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo Hội thực thi sứ mệnh, khi thực sự hiện diện giữa mọi người và mọi dân tộc, bằng cách hoạt động để nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban an sủng khác, dẫn đưa tất cả đến với đức tin, đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa Kitô, nhờ đó mở ra con đường thông suốt và vững chắc giúp họ thông dự trọn vẹn vào mầu nhiệm Chúa Kitô” (AG 5).
Dĩ nhiên, bên cạnh văn kiện mang tính “chuyên đề truyền giáo” nầy, Vaticano II gần như đã “phả hương thơm loan báo Tin Mừng” lên các văn kiện quan trọng khác như Lumen Gentium (Hiến Chế Giáo Hội), Gaudium et Spes (Hiến chế mục vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay), Apostolicam Actuositatem (Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ Giáo dân), Sắc lệnh về Đại Kết (Unitatis Redintegratio), Tuyên Ngôn về mối quan hệ của Hội Thánh với các Tôn Giáo ngoài Kitô (Nostra Aetate), Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo (Dignitatis Humanae)[28]…
2. “Hồi sinh” sau Vaticano II: Từ Evangelii Nuntiandi (1975) đến Redemptoris Missio (1990):
2.1. “Cánh cửa Công Đồng” và những luồng gió khủng hoảng:
Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày bế mạc (1965), Công Đồng Vatican II vẫn còn âm hưởng mạnh mẽ bên trong (ad intra) lẫn bên ngoài (ad extra) Hội Thánh; đặc biệt trong chiều kích “đọc những dấu chỉ thời đại” và “nhìn nhận hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa bên ngoài Giáo Hội Công Giáo”[29]. Quả thật, Công Đồng đã mang lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một động lực trong việc canh tân, đối thoại, hoà giải, đại kết…: “… Nhưng, có điều chắc chắn là không ai có thể phủ nhận ảnh hưởng lớn lao của tinh thần ‘canh tân và hòa giải’ do Công Ðồng Vatican II thổi vào Giáo hội, đem lại cho Giáo Hội một sức sống mới. Từ đây, Giáo Hội được nhìn nhận như một mầu nhiệm hiệp thông, là cộng đoàn Dân Chúa, không còn nặng về tính cơ cấu và phẩm trật nữa…”[30].
Tuy nhiên, những thập niên sau Công Đồng, tức khoảng thời gian từ 1965-1975, toàn thế giới gần như phải trải qua những xáo trộn, đổi thay sâu sắc về nhiều phương diện, khiến công cuộc truyền giáo của Giáo Hội cũng rơi vào khủng hoảng, như cách nhìn của tác giả Robert Schreiter[31] mà Roger P. Schroeder, SVD đã tóm tắt trong bài viết “Giáo huấn Hội thánh về truyền giáo sau Vaticanô II: 1975-2007”: “Schreiter gọi thập niên sau Công đồng (1965-1975) là chặng khủng hoảng về truyền giáo. Thế giới đang chuyển biến: phong trào nhân quyền tại Hoa kỳ, cuộc cách mạng văn hóa bên Trung quốc, Chiến tranh sáu ngày ở Trung Đông, Mùa Xuân Praha ở Tiệp khắc, cuộc nổi dậy của sinh viên ở Mêxicô[32]. Trong Giáo hội cũng có nhiều nhân tố góp phần cho cuộc khủng hoảng. Việc hồi tục của nhiều linh mục và tu sĩ đã làm suy giảm nhân số các thừa sai. Cuộc chấm dứt chế độ thuộc địa, mà công cuộc truyền giáo thường được gắn kết, cũng khiến cho nhiều người kêu gọi kết liễu việc truyền giáo, hoặc ít là một đường lối truyền giáo. Ngoài ra, những biến chuyển thần học của Công đồng – việc nhìn nhận bản chất truyền giáo của toàn Giáo hội (AG 2), sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới như là các dấu chỉ thời đại (GS 4), sự cần thiết của việc đối thoại và hợp tác với các tín đồ các tôn giáo khác (NA 2), và khả năng có thể được cứu độ ngoài Hội thánh (LG 16) – đã cắt đứt những động lực trước Công đồng về việc cứu độ các linh hồn và về việc thiết lập Giáo hội hữu hình”[33]. (x. STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER)[34].
2.2. Evangelii Nuntiandi: Đến với muôn dân hay là việc Phúc Âm hoá mang tính toàn diện
Năm 1974, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới (thứ III) để bàn sâu và rộng về việc “Loan báo Tin mừng trong thế giới hiện đại”. Đúc kết những ý kiến của các nghị phụ, Đức thánh cha đã soạn và ban hành tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin mừng - EN) năm 1975, như một “điểm đến của Năm Thánh vừa kết thúc (1975) và món quà kỷ niệm “10 năm bế mạc Công Đồng Vaticano II”[35].
Đây được coi là văn kiện “định chuẩn” về sứ mệnh truyền giáo của Hội Thánh; vừa bổ túc cho AD GENTES (chỉ mới xoay quanh MISSIO)[36] vừa mở ra những định hướng mới sâu rộng hơn, bao quát hơn (với EVANGELIZATIO)[37]. Có thể nói được, với 3 số 18,19,20, tông huấn Evangelii Nuntiandi đã phần nào diễn đạt khái quát “nội hàm” của EVANGELIZATIO: Phúc Âm hoá chính là “Đổi mới nhân loại”[38], là “Đổi mới cảnh vực sống của nhân loại”[39] và “Phúc Âm hoá những nền văn hoá”[40].
Và một trong những “điểm nhấn” quan trọng của Tông huấn nầy đó “loan báo Tin Mừng qua đời sống chứng tá” mà lời phát biểu của Đức Phaolô VI đã trở thành một câu châm ngôn: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”[41].
2.3. Redemptoris Missio: Truyền giáo: câu trả lời của niềm tin và tình yêu
Nhân dịp kỷ niệm “Ngân Khánh AD GENTES” (1965-1990) và “Mười lăm năm EVANGELII NUNTIANDI” (1975-1990), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Thông điệp SỨ VỤ ĐẤNG CỨU THẾ (REDEMPTORIS MISSIO - RM) ngày 7.12.1990; và người ta cho rằng, đây là văn kiện quan trọng nhất của triều đại Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II[42].
Về cơ bản “thần học truyền giáo” nơi “RM”, như nhận xét của ROGER P. SCHROEDER, là một tổng hợp và bổ túc “dựa trên AG (Sắc lệnh Truyền Giáo Ad Gentes) và EN (Tông huấn Loan báo Tin Mừng – Evangelii Nuntiandi), nêu bật vai trò của Chúa Kitô và sự cần thiết phải loan báo Đức Kitô là chủ tể”[43].
Thật vậy, “vẫn trên dòng sông cũ” của Giáo Hội, Thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Thế” muốn mang Hội Thánh “Ad Gentes” triệt để hơn, rộng khắp hơn, chính xác hơn…, như đến với những “Chân Trời Bao La”[44], bao gồm những “vùng đất còn xa lạ với Tin Mừng”, những cộng đoàn Dân Chúa vững mạnh và những Giáo Hội cần được “Tân Phúc Âm hoá”[45]. Và cũng từ viễn tượng “Chân trời bao la” đó, RM muốn một lần nữa cống hiến câu trả lời dứt khoát cho những ai, những trào lưu muốn đặt lại căn tính cũng như lý do của “sứ mệnh truyền giáo” của Hội Thánh: “Đối với câu hỏi: Tại sao phải truyền giáo ? Thì nhờ niềm tin và kinh nghiệm của Giáo Hội, chúng tôi xin trả lời rằng sự giải phóng đích thực là đón nhận tình yêu của Đức Kitô... Truyền giáo là một vấn đề của niềm tin, đó thực là thước đo niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô và vào Tình yêu Người dành cho chúng ta” (RM số 11).
Vả lại, cũng từ cái nhìn lạc quan, phấn khởi, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế đã trang bị cho Hội Thánh và con cái của Giáo Hội cả một “Linh đạo Truyền Giáo”, một phương thế, một con đường để “nên thánh”: “Hoạt động truyền giáo đòi phải có một linh đạo đặc biệt, một linh đạo áp dụng riêng cho tất cả những ai được Thiên Chúa kêu gọi để trở thành những nhà truyền giáo.” (RM số 87). Vâng, “Linh đạo truyền giáo của Giáo Hội là một cuộc hành trình tiến đến sự thánh thiện” (RM 90); và đó là điều mà Vị Thánh Giáo Hoàng của chúng ta đã trực giác ngay từ thuở ban đầu của Giáo Hội, và công cuộc Phúc Âm Hoá hôm nay cũng phải như thế: “chúng ta hãy nhớ đến lòng nhiệt thành truyền giáo của các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi. Bất chấp phương tiện di chuyển và truyền thông hạn hẹp vào những thời ấy, việc loan truyền Phúc Âm vẫn nhanh chóng tiến đến tận cùng trái đất. Đó là tôn giáo của một Con Người chết trên thập giá, của “một viên đá vấp phạm cho người Do Thái và ngu xuẩn cho Dân Ngoại” (1Cor 1:23)! Bên dưới cái năng động truyền giáo này chính là đời sống thánh thiện của các Kitô hữu và các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi vậy” (RM 90). .
3. Tân Phúc Âm hoá hôm nay: “Đi ra trong Niềm vui” và “Trẻ trung trong Hiệp Hành” (Từ Evangelii Gaudium tới Christus Vivit).
3.1. Evangelii Gaudium: Giáo Hội “Đi ra trong Niềm vui”[46]:
Từ buổi sáng thứ Ba ngày 26/11/2013, cả thế giới Công Giáo hân hoan khôn xiết khi được đón nhận một quà tặng tuyệt vời từ Vị Mục Tử Tối Cao. Quà tặng tinh thần cao quý đó chính là Tông Huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng), Tông huấn đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô sau hơn 8 tháng trên ngai tòa Thánh Phêrô.
Trong viễn tượng “thời sự mục vụ”, có thể nói Tông Huấn nầy là một đúc kết (như vẫn thường xảy ra) của Đức Thánh Cha sau cuộc họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới; ở đây, chính là văn kiện hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục thứ 13, diễn ra từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 10 năm 2012 tại Rôma với chủ đề Tân phúc âm hóa để thông truyền đức tin Ki-tô giáo.
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, cho dù “nhiều lần, Đức Thánh Cha Phanxicô tham chiếu các Đề nghị của Thượng Hội Đồng tháng Mười 2012, như thế ngài cho thấy sự đóng góp của Thượng Hội Đồng quan trọng là dường nào trong việc soạn thảo Tông huấn này. Thế nhưng văn kiện này đi xa hơn kinh nghiệm của Thượng Hội Đồng. Trong văn kiện này, Đức Thánh Cha đã in dấu không chỉ kinh nghiệm mục vụ riêng của ngài, nhưng còn lời mời gọi đón nhận thời điểm ân sủng mà Giáo Hội đang sống, để xúc tiến cách tin tưởng, xác tín và nhiệt thành giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa.”[47].
Kể từ khi được công bố cho thế giới, quả thật Tông Huấn EG[48] - cùng với con người và “phong cách mục vụ” của ĐTC Phanxicô, đã thổi vào “cơ thể” Giáo Hội và cả thế giới một luồng sinh khí mới mẻ đầy tươi mát, hân hoan và hy vọng, như nhận xét tinh tế của Linh mục James Martin, SJ: “Chưa bao giờ lại có một văn kiện giáo hoàng khiến người ta phải suy nghĩ, ngạc nhiên và lên tinh thần bằng tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”[49]. Vâng, có thể nói, đây chính là “tiếng kèn” đánh thức để Dân Chúa lên đường Tân Phúc Âm hoá bằng cam kết “Đi ra trong Niềm vui”.
3.2. Những điểm nhấn của “Evangelii Gaudium”:
3.2.1. Cốt lõi của “Tân Phúc Âm hoá” là tìm lại “niềm vui của Tin Mừng”: “NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới.”[50].
3.2.2. Hành động và thái độ đầu tiên của tiến trình “Tân Phúc Âm hoá”: hoán cải mục vụ để trở về với chọn lựa căn bản: truyền giáo chứ không phải “bảo tồn”:
- “Trong những ngày này, nơi các GM chúng tôi, nhiều lần có những tiếng nói được gióng lên nhắc nhở rằng để có thể rao giảng Tin Mừng cho thế giới, thì trước tiên Giáo Hội cần đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời Chúa. Lời mời gọi rao giảng Tin Mừng được diễn tả qua lời kêu gọi hoán cải. Chúng ta hãy tin chắc rằng chúng ta phải là những người trước hết cần phải hoán cải, cần phải trở về với quyền năng của Chúa Kitô, là Đấng duy nhất có thể đổi mới mọi sự, nhất là đổi mới cuộc sống nghèo nàn của chúng ta.”[51].
- “Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.”[52].
3.2.3. Một Hội Thánh Tân Phúc Âm hoá phải là Một Hội Thánh “đi ra” để gặp gỡ và cống hiến: “Vì vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi từng nói cho các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục.”[53].
3.3. Christus Vivit: Để Giáo Hội “Trẻ trung trong Hiệp Hành”:
Một trong các “môi trường mục vụ” để Hội Thánh triển khai chương trình Tân phúc âm hóa để thông truyền đức tin Ki-tô giáo, đó chính là “Giới Trẻ”; đây cũng chính là chủ đề nghị sự của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới thứ XV: Giới trẻ, Đức tin và Phân định ơn gọi[54].
Trong tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng về giới trẻ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành tông huấn “Christus Vivit” (Đức Kitô đang sống - CV), như một động lực, một cơ hội để “Chính những người trẻ có thể giúp Hội thánh giữ được tinh thần trẻ trung, không rơi vào băng hoại; không dừng lại, không kiêu hãnh, không biến thành giáo phái, nhưng trở nên nghèo khó và có khả năng làm chứng hơn nữa, gần gũi với những người hèn kém và những người bị bỏ rơi, biết đấu tranh cho công lý và khiêm tốn đón nhận những chất vấn. Người trẻ có thể đem đến cho Hội thánh vẻ đẹp của sự trẻ trung khi họ khơi gợi khả năng ‘vui mừng về những khởi đầu, luôn cho đi chính mình, canh tân và lại lên đường để đạt những thành quả mới’”[55].
Ngoài nhiều định hướng được đề nghị cho chương trình mục vụ giới trẻ, có thể nói được, định hướng “Hiệp Hành” chính là điểm quy chiếu quan trọng cho việc thực hiện tiến trình Tân Phúc Âm hoá, đặc biệt cho người trẻ: “Sự tham gia của giới trẻ đã giúp “đánh thức” mô thức hiệp hành, là một “chiều kích cấu thành của Hội Thánh.” Như thánh Gioan Kim Khẩu nói, “Hội Thánh đồng nghĩa với Hiệp Hành”, bởi vì Hội Thánh không là gì khác mà chính là việc “cùng nhau bước đi” của đàn chiên trên con đường lịch sử để gặp Đức Kitô” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Tính hiệp hành đặc trưng cho cả đời sống lẫn sứ vụ của Hội Thánh, là Dân Chúa được tạo thành bởi những người già, trẻ, nam, nữ thuộc mọi nền văn hóa và mọi giai cấp từ mọi chân trời, và là Thân Thể Đức Kitô trong đó chúng ta là những chi thể của nhau, đặc biệt là những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị chà đạp. Trong tiến trình trao đổi và qua các chứng từ, Thượng Hội Đồng đã đưa ra một số đặc tính cơ bản của kiểu hiệp hành mà chúng ta được mời gọi hoán cải.”[56].
Hy vọng, qua mô hình “Hiệp Hành” trong mục vụ giới trẻ, Hội Thánh sẽ tìm được giải pháp tối ưu cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá: “Mục vụ giới trẻ phải “mang tính hiệp hành” (synodale), nghĩa là có khả năng liên kết trong một “hành trình chung”, điều đó bao hàm “sự quý trọng các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho mỗi thành viên trong Giáo Hội theo ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ thúc đẩy mọi thành viên tham gia gánh vác trách nhiệm. […] Với tinh thần nầy, chúng ta sẽ có thể tiến tới một Giáo Hội có nhiều tác nhân tham gia và cùng chia sẻ trách nhiệm, một Giáo Hội có khả năng cho thấy được nét phong phú nhờ tính đa dạng, đồng thời chúng ta cũng đón nhận với lòng biết ơn sự đóng góp của các tín hữu giáo dân, nhất là của giới trẻ và nữ giới, cùng sự chung tay góp sức của các người sống đời thánh hiến nam và nữ, của các nhóm, hội đoàn và phong trào. Chúng ta không được gạt bỏ một ai hoặc làm cho một ai có thể muốn xa lánh chúng ta”. (CV số 206).
Kết luận Phần I
Kể từ “mệnh lệnh đầu tiên” của Thầy Chí Thánh, công cuộc loan báo Tin Mừng vẫn như một dòng chảy bất tận mà toàn thể “Nhiệm Thể Chúa Kitô” là nước, là phù sa, bãi bờ… mang đến cho nhân loại Tin Mừng và Hồng ân cứu rỗi.
Về phương diện phàm trần, dĩ nhiên, con người hay định hướng, phương pháp, cách thế truyền giáo được Giáo Hội chọn lựa mỗi thời mỗi khác, sao cho thích dụng với các thế hệ con người, các môi trường xã hội, văn hoá… của mỗi thời đại.
Trong khi đó, viễn tượng siêu nhiên sẽ cho thấy: những điều cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng, của chân lý cứu độ, càng ngày càng được đào sâu, củng cố, trình bày và chuyển tải sao cho, vừa trung thành với đức tin Tông Truyền, với nguồn cội; vừa trở nên “quà tặng”, giải pháp, con đường được thuyết phục và đón nhận đối với tâm thức nhân loại hôm nay.
Hy vọng chúng ta sẽ tìm gặp hai chiều kích đó ngay trong văn kiện MONITA, Kim Chỉ nam cho các thừa sai đi gieo hạt giống Tin Mừng trên vùng đất Á Châu vào thế kỷ 17.
(Còn tiếp: PHẦN 2: BÌNH VẪN CHƯA HỀ CŨ)
Nguồn: WHĐ (30.6.2021)