
Suy Niệm Lời Chúa | Chúa Nhật XXX Mùa Thường Niên - Năm B | Mc 10,46-52 | Lm Alfonsô

SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT TUẦN XXX MÙA THƯỜNG NIÊN
Bài đọc 1: Gr 31,7-9
“Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt”.
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”. Ðây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây. Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta. Ðó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 125,1-2ab.2cd-3.4-5.6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
1) Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.” Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Bài đọc II: Dt 5,1-6
“Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.
Bài trích thư gửi tín hữu Do Thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron. Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”. Ðó là lời Chúa.
Allêluia Allêluia (Lc 19,38) – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – All.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô (Mc 10,46-52).
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nazaréth, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavíd, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người. Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Giêrikhô về mặt lịch sử là một trong những thành phố danh tiếng và cổ xưa nhất thế giới. Theo các nhà khảo cổ học, với những di tích còn lại, người ta khám phá nơi đây từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh đã có người sinh sống. Đó cũng là thành phố “thấp nhất” thế giới, dưới mặt nước biển 250 m gần biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng.
Về mặt Kinh Thánh, theo nhà chú giải của Noel Quession thì Giêrikhô là biểu tượng cho “việc dân Do Thái tiến vào miền đất hứa” ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qu,a cũng như đối với đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô Giêrusalem chừng 15 dặm. Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng” vì xa xưa người dân kỷ niệm việc thờ kính Vị thần ban đêm. Trong biểu tượng Kinh Thánh người mù là “hình trạng” của sự “khó nghèo”, của con người bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu sẽ làm “dấu lạ” tại thành phố ban đêm này để đem lại ánh sáng cho mù đáng thương. Người “hành khất mù” này, lại sắp trở thành gương mẫu cho các môn đệ và tất cả chúng ta là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40).
Dân gian có câu “Ông trời không lấy hết của ai bao giờ”. Nếu như người khiếm thị Bartimê không thể nhìn thấy mọi sự đang diễn ra xung quanh, thì trời thương bù lại cho anh có một thính giác hơn người. Với đôi tai nghe ngóng, anh đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu người Nazaréth, và dùng trực giác trời ban, anh nhận ra con người này chính là Đấng được Thiên Chúa sai đến, nên anh bất chấp mọi sự ngăn cản, kêu van lớn tiếng: “Hỡi con vua Ðavíd, xin thương xót tôi”. Tiếng kêu lớn muốn cắt ngang giữa đám đông đang đi theo một vị thầy để lắng nghe những giáo huấn thì tiếng đó là một sự mạo phạm. Vì thế mà nhiều người xung quanh mắng anh bảo im đi. Nhưng anh nhận ra đó không phải là một vị thầy như các Rabbi khác. Anh suy nghĩ “bây giờ hoặc không bao giờ”, không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh càng hét lớn và thống thiết. Lời này tha thiết tới nỗi được các giáo phụ đưa vào thành lời cầu nguyện chính thức trong Giáo hội, nguyên tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”.
Tiếng kêu ấy đã thấu đến tai Chúa Giêsu. Người đã dừng lại và truyền gọi anh đến. Không chút trì hoãn, anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giêsu. Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14). Có lần có người đụng chạm tới áo ngoài của Chúa Giêsu cũng đủ để được chữa lành bệnh. Khi Chúa Giêsu bị hành hạ và đóng đinh, người ta đã truất đi áo ngoài của Người và chia chác nhằm truất đi quyền lực của Người xua trừ ma quỷ, lời Người giảng dạy như Đấng có uy quyền giờ đây họ đã hạ nhục qua thân thể Người trần trụi chịu treo thập giá. Song, Người đâu cần chi quyền lực trần thế. Chính khi Người bị hạ xuống tận cùng một cách ô nhục lại là lúc mà Chúa Cha tôn vinh Người Con ấy.
“Có đau mắt mới biết thương người mù”. Người mù không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Người khiếm thị không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời hay ngắm người thân bạn bè đã đành, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, và sống bên lề xã hội. Chúa Giêsu biết rõ người mù Bartimê đang mong đợi điều gì nơi Người, một sự giải thoát thể lý để được sáng mắt, khỏi thành một gánh nặng và của nợ của kẻ khác. Nên danh hiệu “con vua Đavid thuộc về Đấng Mêssia” mà anh mù nhận ra còn khiếm khuyết vì đó là một danh hiệu mà dân mong đợi một vua thuộc dòng dõi Đavíd sẽ chinh phục thế gian, khôi phục dân Israel thành dân tộc vĩ đại. Vì thế mà Người muốn anh tuyên xưng đức tin cách công khai.
Chúa Giêsu hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Vào thời cộng đoàn của thánh sử Marcô, người ta gọi phép rửa là “việc khai sáng”. Đó là bí tích mở mắt. Phép rửa là công cuộc cứu độ, là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Người nói: “ ‘Ðược, đức tin của anh đã chữa anh’. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người”. Qua phép lạ cho anh mù sáng mắt, điều giáo huấn của Chúa dành cho những ai đang lắng nghe Người đó là: Điều không thể đối với con người nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể vì lòng tin của anh mù vào Đấng đang ở trước mặt anh. Chúa Giêsu mạc khải cho biết Người chính là Thiên Chúa, có quyền năng Thiên Chúa sẽ đem lại ơn ích cho ai tha thiết cầu xin. Anh Batimê sẽ mãi mãi nhớ “khuôn mặt đầu tiên” mà anh đã thấy khi mắt anh đã được mở ra. Đó là khuôn mặt của một Thiên Chúa nhân hậu và chữa lành. Đấng đem lại cho anh sự tự do và khai sáng cuộc đời. Đấng đem lại cho anh sự hạnh phúc và ơn nhận lãnh khi đức tin đủ lớn hướng về Chúa là ánh sáng không bao giờ tàn lụi.
"Chiếc lá cuối cùng" (tiếng Anh: The Last Leaf) là một trong 600 truyện ngắn của nhà văn người Mỹ O.Henry, được xuất bản lần đầu vào năm 1907 trong tập truyện The Trimmed Lamp and Other Stories. Truyện ngắn này đã được đưa vào sách giáo khoa của nhiều nước để giới thiệu văn học nước ngoài, trong đó có sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8 tập 2 (2018). Truyện lấy bối cảnh ở khu Greenwich Village, Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ. Sue và Johnsy là hai người bạn đều là nữ họa sĩ trẻ sống trong một khu nhà trọ. Trong dãy trọ ấy có một họa sĩ già tên là Behrman cũng sống ở đó. Cả đời cụ khao khát vẽ được một kiệt tác nhưng chưa thành đạt trên con đường nghệ thuật.
Mùa đông năm ấy, Johnsy bị bệnh sưng phổi rất nặng. Bệnh tật khiến tinh thần cô suy sụp, cô mất hết niềm tin và nghị lực, tâm trạng buông xuôi tuyệt vọng. Cô gái tội nghiệp ngó ra cửa sổ và âm thầm đếm từng chiếc lá thường xuân vàng đi và rơi rụng từ mười mấy giờ chỉ còn sáu, năm bốn... với ý nghĩ rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống là sẽ là lúc cô lìa đời. Sue vô cùng lo lắng và hết lòng chạy chữa cho bạn mình nhưng vô ích khi Johnsy vẫn tâm trí bi quan như vậy.
Biết được suy nghĩ tiêu cực và điên rồ đó của Johnsy khi được Sue thuật lại, người họa sĩ già chung khu trọ ban đầu mắng um lên về suy nghĩ nhảm nhí va tiêu cực đó của danh họa trẻ Johnsy, nhưng rồi ông lại âm thầm thức suốt đêm trong mưa gió bão bùng và đầy tuyết lạnh để vẽ chiếc lá thường xuân. Chiếc lá cuối cùng giống như thật. Nó đã mạnh mẽ bám víu vào thân cây dẫu cho mưa bão lớn đêm qua không làm cho nó rơi rụng. Ngắm chiếc lá thường xuân đầy nghị lực ấy khiến Johnsy suy nghĩ lại, cô nuôi hy vọng và muốn được sống, được sáng tạo. Johnsy từ cõi chết trở về, sự lạc quan ấy làm cho bệnh tình của cô dần hồi phục. Cô bạn Sue lặng lẽ đến bên Johnsy báo cho bạn về sự ra đi của cụ Behrman vì bệnh sưng phổi và bí mật của tuyệt tác chiếc lá cuối cùng sau đêm cố gắng sáng tạo để cứu Johnsy.
Với những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế mà thư Do Thái trong bài đọc II cho biết vị ấy là một con người như bao người khác, chia sẻ những yếu đuối của con người: “Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy, thì giờ đây, Thiên Chúa thương ban cho nhân loại một vị “Thượng Tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”, Người được Chúa Cha tôn vinh: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Chúa Kitô là vị thượng tế siêu việt và độc nhất vô nhị, một Con Thiên Chúa nhập thể làm người, là Đấng Trung Gian để thực thi lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho con người.
Lạy Chúa, Chúa đến đem lại ánh sáng và niềm hy vọng cho cuộc đời con. Xin hãy thắp sáng ngọn lửa đức tin và hy vọng trong con để trong cuộc đời con dầu có những tăm tối, những chênh vênh và bế tắc, con vẫn luôn tin tưởng ánh sáng Chúa soi dẫn bước đi trong con và tình thương Ngài luôn đong đầy cho những khiếm khyết và yếu đuối của con, nhờ đó mà con không bị hụt bước. Amen.