
Chiều kích Thần học Phụng vụ về hành hương

SUY TƯ THẦN HỌC
CHIỀU KÍCH THẦN HỌC PHỤNG VỀ HÀNH HƯƠNG
Dẫn nhập
Hành hương là một hành động thường xuyên Xuyên suốt của lòng đạo đức bình dân ngoài công việc phụng sự chính thức của Hội thánh. Trong mọi thời điểm, cảm thức của dân thánh đều được diễn tả bằng các hình thức đạo đức đức như hành hương đến các thánh địa để tôn vinh các thánh linh, tôn thờ các thánh địa, thánh địa. Thực hành này liên kết chặt chẽ giữa người hành hương và địa điểm hành hương. Công việc hành hương hương phản mối mối liên hệ sâu sắc giữa đức tin và hành trình cuộc sống đức tin của người lữ hành. Khi thực hành việc đạo đức này, người lữ hành sẽ lên đường trở về quê hương theo nghĩa thiêng liêng. Hay đúng hơn, người hành hương, hay đoàn hành hương sẽ thực hiện một hành trình ra đi để tìm kiếm Thiên Chúa, giá nhiều lòng thương xót, chính Người sẽ cấm phát mọi ơn phước xác linh hồn, và cũng chính Người mời khách bỏ chỗ mình đang ở để lên đường với nhau và với Chúa. Chính Người sẽ dẫn dắt họ trong quá trình này. Do đó, những người hành hương nên tạ ơn Chúa vì hồng ân lên đường hành hương và xin Người giúp đỡ để sống chết hữu một cách quảng đại hơn khi họ trở về nhà. [1]
Trong bối cảnh của Năm Thánh 2025, với hiệu là: “Người hành hương của hy” , bài viết này xin tipup một số điểm thần học cơ bản của Phụng về hành hương, một thực hành sản xuất phát từ đức đạo bình dân của các Tử hữu, như một hình thức kết nối đời sống Phục vụ, dựa các Hướng dẫn về đạo đức dân và Bí tích nhiệm vụ của Phụng Tự và Bí tích cũng như giáo dục của Hội liên quan đến đề tài này.
1. Hành hương, đặc tính của Thánh hành hành
Hành hương “đi lên thánh thánh” là biểu tượng đức tin của Hội thánh lữ hành về Quê Trời. Thực hành đạo đức này là một trong những biểu hiện đức tin và niềm hy vọng của Hội thánh tại thế đang trên đường tiến về Nhà Chúa, nơi mà các tín hữu hoàn thành mục tiêu cuối cùng của cuộc đời mình. Hành hương vừa là một trình tự có thể giải quyết các “linh hành thánh”, cũng vừa là hành trình tâm linh của mỗi tín hữu lên đường trở về Nhà Cha trên trời.
Quả thật, bao lâu còn sống trên dương thế, Hội thánh vẫn luôn tìm kiếm những hương vị trên trời. Tuy Hội “hiện diện nơi trần gian nhưng chỉ như người hành hành”, [2] “đang khi du hành trên mặt đất này còn cách xa Thiên Chúa [3] và thấy mình như kẻ lưu đầy, nên hãy tìm kiếm và ao ước những sự thật trên trời, Đức nơi đó ngự bên hữu Thiên Chúa, nơi sống của Hội thánh được ẩn với Đức Thánh trong Thiên Chúa, chờ ngày được xuất hiện cùng với Phú Quân tại vinh quang”. [4] Do đó, ngoài đích tới của cuộc hành hương là các thánh thần, người Chết tham gia cuộc hành hương luôn hướng tới chiều kích cánh chung của đời mình, luôn hướng dẫn về Nước Trời là Đền Thánh đích thực. Người hành hương lên đường trong tâm trạng vui tươi của người luôn tin tưởng và phó thác. Các bài Ca nhập lễ có thể hiện tâm tình của người hành hương hy vọng chứa chan niềm vui: “Đi về nhà Chúa, tim con reo hoan lạc Chúa ơi”; “Con sẽ hoan hoan tiến vào cung thánh, nơi gần Chúa Trời…”; “Từ đa phương ta về đây so sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên thần Chúa ta, xin hoan hô ta cùng nhau tiến bước nhịp nhàng, vui hát mừng trong Chúa yêu tốc độ ta”.
Ý thức quy định tiến trình của Hội thánh tại, Đức giáo hoàng Francis, khi công bố mở năm thánh bình thường năm 2025 qua Sắc chỉ Spes non confundit , gọi các tín hữu là “những người hương của hy vọng”, và bạn kêu: “ Mỗi người chúng ta đều cần hy vọng trong cuộc sống của mình, đôi khi rất mệt mỏi và đau đớn, trái tim chúng ta khao khát sự thật thật, hãy tốt và yêu, những ai có thể xua tan bóng.” thứ, bên trong và bên ngoài chúng ta, đều kêu gào hy vọng và tiếp tục tìm kiếm sự gần gũi của Chúa, ngay cả khi chưa biết điều đó”. [5]
2. Hành hương, hành trình của đức tin
Hành hương là một trong những hành động của đức tin, thực hiện khuôn mặt của Hội thánh lữ hành. Lịch sử nghiên cứu bắt đầu với biến thiên Chúa chọn Abraham, cụ già 75 tuổi. Đức Chúa đã gọi ông rời quê cha đất tổ là thành Ur (miền Nam Iraq ngày nay) để đi đến vùng đất mới Canaan. [6] Lên đường vì một người tiếng gọi, Abraham đã bước đi với một niềm tin và niềm hy vọng, tín thác vào Đức Chúa. Đây có thể là nguồn gốc của hành hương được thực hiện bởi “cha của những kẻ tin”: bỏ quê hương đi đến nơi Chúa hứa. Đi tới nơi mà mình chưa biết chính xác là nơi nào, chắc chắn Abraham và gia đình đều mang tâm trạng vừa lo lắng nhưng lại vừa võ bảo. Tuy nhiên, Ông đã đặt niềm hy vọng vào Thùng đã kêu gọi ông. Ông đã tin và tín thác, đã ra đi và đã tới miền Đất hứa. [7]
Hành hương là lên đường đi đến miền Đất hứa, theo nghĩa thiêng liêng. Người hành hương lên đường vì một tiếng gọi đã kết thúc con tim. Thiên Chúa gọi mỗi người bằng mỗi cách khác nhau. Cũng như Abraham, trong cõi lòng của người tín hữu đều ước mơ đi đến “vùng đất thánh”. Trong tâm trạng chiến đấu của người hành động: “Vui phải bất cứ khi nào thiên hạ bảo tôi, ta cùng tiến lên thần thánh Chúa! và giờ đây, Jerusalem sét, cửa nội thành ta đã dừng chân”. [8] Khi hành hương đến thần thánh, người tín hữu khao khát được gần Chúa hơn, lắng nghe Lời Người, cảm giác hiện diện của Người. Đây chính là thời điểm thích hợp để mỗi người sống khao khát khát vọng, rời xa những cơn cuồng trần thế, bỏ lại sau lưng nhưng bận tâm đời thường để tĩnh tâm, để sống thân tình với Chúa, với bản thân và tha nhân.
Hành hương không đơn thuần là một chuyến đi thể lý, hay một chuyến du lịch tâm linh, không phải, nhưng là một hành trình đức tin của người tín hữu, hành trình này có đích tới là Nhà Chúa và để gặp Chúa. Là khách lữ hành trên cõi đời này, người tín hành luôn hướng đến quê hương thật sự là Nước Trời. Thánh dạy: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta rất vui lòng mong đợi Đức Chúa Kitô từ trời đến cứu chúng ta”. [9] Người hành hương cần du thuyền cảm, lòng trung thành và sự tín thác như dân Israel đã bộ hành trong sa mạc năm xưa để đến Đất hứa. [10] Hành trình này cần thời gian để thanh luyện tâm hồn, giúp người tín hữu nhận ra ý nghĩa sâu xa của đời sống đức tin.
Trong thời gian hành hương, trước tiên, người tín hữu được mời tái khám phá đức tin qua việc suy gẫm về các mối tương quan của bản thân với Chúa và tha nhân. Tiếp đến, họ cũng được mời gọi sám giảm và cải thiện. Các thánh thần luôn là nơi lý tưởng để nhận lãnh bí tích hòa giải, làm mới lại đời sống thiêng liêng. Cách đặc biệt, đền thánh là nơi cử hành các mầu nhiệm đức tin. Qua phục vụ các bí tích, cao điểm là Thánh lễ, các Kitô hữu được lắng nghe Lời Chúa, được gặp gỡ Chúa Giêsu Thánh Thể, đích đến của hành hương. Như thế, hành trình tìm Chúa của người hành hương cũng có thể được xem như các hành trình của các đạo sĩ Đông Phương, họ đã lên đường, thực hiện hành trình xa xôi để tìm gặp Hài Nhi Chúa Giêsu. Niềm tin đã dẫn dắt họ vượt qua mọi khó khăn, và cuối cùng họ đã được tích tích Kiến trúc Kiến trúc Cứu Thế và thờ lạ Người. [11]
3. Hành hương, hành trình của niềm hy vọng
Niềm hy vọng của người tín hữu phát sinh từ tình yêu và dựa trên tình yêu tuôn trào từ trái tim Chúa Giêsu được thu thập trên thu giá. Khi tham gia hành hương, người tín bắt đầu bước vào hành trình của hy vọng: về Nhà Chúa, gặp Đức giết để “biến đổi cuộc đời, để yên sinh tình đệ huynh”. Niềm tin tin cậy (cách gọi khác của hy vọng), một trong ba nhân đức đối thần, là động lực hoàn thiện hành động này, giúp người lữ hành vượt qua những thử thách để kiếm tiền chính được thu thu. Người là cùng đích và hy vọng của cuộc sống, là người ban phát mọi ân huệ cho những ai tin tưởng và đặt niềm tin vào người.
Cuộc đau khổ của Chúa Chết luôn là tâm điểm của buổi hành động phụng sự. dưới bóng thu thập, các dịch vụ của Thánh lễ được cử hành. Phụ tùng tùng quy định “trên hoặc gần bàn thờ, cũng phải đặt một Thánh giá có tượng Chúa Kitô chịu đóng cửa cho dân dân được xem xét rõ ràng. Để hoàn thiện các tín hữu nhớ đến cuộc thương khó sinh ơn cứu độ của Chúa, nên đặt cây thánh giá này gần bàn thờ, ngay cả khi không cử hành dịch vụ”. [12] Khi bước vào Phụng lễ thánh lễ, Hội thánh du hành đã bước theo Chúa Kitô chịu nạn, một chuyến hành hương được thực hiện với lễ nhập lễ cùng với đoàn rước trong tuần tự theo Thánh giá Chúa Kitô. [13]
Niềm hy vọng là sự tin tưởng vào cái chết và sự phục sinh của Chúa, Đổ giàu lòng thương xót và luôn ban cho tất cả những ai kêu cầu Người, “xin thì sẽ được, tìm thì sẽ tìm, gõ cửa thì sẽ mở cho”. [14] Vì thế, hành hương có thể thực hiện một hành trình sống của đức tin: rời bỏ nơi an toàn đức bợ để bước đi trong sự tín thác thác thác, tin rằng Thiên Chúa sẽ hướng dẫn và cấm tặng những điều tốt đẹp nhất. Chuông nhà thờ vang lên như tiếng Chúa gọi, người tín hữu lên đường, dù con đường từ nhà mình đến nhà thờ ngắn, dài khác nhau, nhưng là quảng đường biểu tượng của một hành trình đi về Nhà Chúa mà khách du lịch cần phải thực hiện. Người tin Chúa, tìm Chúa sẽ không thất vọng. Thánh yên đã khẳng định: “Niềm hy vọng không làm thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã khiến chúng tôi nhờ Thánh Thần”. [15] Trọng Thánh kinh, niềm tin tin cậy luôn gắn liền với các cuộc hành hương. Abraham đã bỏ quê hương theo tiếng gọi của Đức Chúa, trông cậy vào lời hứa đã đi đến một “miền đất hứa” và để có được một dòng dõi đông đảo như sao trên trời; [16] Dân Israel vượt qua sa sa mạc, dù đối diện với biết bao khó khăn, kể cả những lần bất trung với Đức Chúa, nhưng niềm tin và niềm tin cậy nơi Đức Chúa dẫn dắt họ vào Đất Hứa. [17] Người tín hữu Kitô cũng xác tín, khi tham gia hành hương, Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ đến gần Người hơn, như lời Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI quyết định: “Niềm hy vọng mộng giáo không Ảo tưởng, mà chắc chắn rằng Chúa đang đồng hành và dẫn chúng ta đến sự thỏa mãn của Người”. [18]
4. Hành hương, thời điểm thực thi đức bác ái
Hành hương trong truyền thống Giáng giáo không chỉ là chuyến đi đến các địa danh linh thiêng mà còn là một hành trình tâm linh hướng về Thiên Chúa và tha nhân nhất. Thời gian hành hành hương là cơ hội để mỗi người tái khám phá mối tương quan với Chúa, với chính mình và với tha nhân trong ánh sáng của Lời Chúa và hiện diện của Người.
Cuộc hành hương bắt đầu từ lòng khao khao khát Chúa. Đây là hành vi đức tin và đức ai mà người lữ hành dành cho Thiên Chúa và cho nhau. Khi biết dành thời gian, công việc, sức khỏe cũng như vượt qua những khó khăn của hành trình, người du hành có thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa qua việc sẵn sàng từ bỏ bản thân để tìm kiếm Thiên Chúa. Đây là thời điểm thuận lợi để cầu nguyện, tạ ơn và khen thưởng. tuy nhiên, như thánh Giacôbê khẳng định “đức tin không làm việc đức tin chết”, [19] cho nên, khi người lữ khách đến với thánh thần không có lễ nào đẹp lòng Chúa cho bằng tình thương yêu dành cho tha nhân. Giakêu sau khi “hành hương” đến nơi “cây sung” gặp Chúa, sau khi tiếp rước Chúa, thì một cuộc cải cách và mở lòng ra với tha nhân: “Đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho ngạn nghèo”. Chúa Giêsu đã nói “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. [20] Việc làm đô tiền “rổ” trong phụ vụ, thùng tiền cúng nơi các điểm hành hương, là lời mời người du khách góp phần chia sẻ với tha nhân, nhất là với những đời mảnh cùng khổ. Có thể nói, hành hương “đây là thời gian thuận tiện, đây là ngày yêu độ” mà phục vụ luôn vang lên trong lòng lòng của hành khách.
Một khía cạnh quan trọng của hành hương là Hiệp thông trong cộng đồng tín hữu. Việc tham gia hành hương không chỉ là hành động cá nhân mà còn là một hoạt động cộng đồng: cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ và đồng hành trong đức tin. Điều này có thể tạo ra sự kết nối mạnh mẽ giữa các thành viên trong các Hội thánh, dù họ đến từ các miền khác nhau. Cuộc chiến thông tin này có thể được thể hiện rõ trong các nghi thức phục vụ diễn ra trong các chuyến hành hương. Các nghi lễ phục vụ như thánh lễ, thú tội, hay các buổi cầu nguyện nhóm như lần chuỗi, mặc đồ Thánh giá không chỉ giúp xây dựng cố gắng đức tin cá nhân mà còn xây dựng Hiệp hiệp nhất trong cộng đoàn tín hữu. Cũng có thể nói, thời gian hành hương là dịp tiện lợi để thực hành bác ái. Người hành hương có thể hỗ trợ nhau từ những việc mang vác đồ, giúp đỡ người già yếu, đến việc động viên nhau về tinh thần như tha thứ và hòa giải, hàn gắn những mối mối bất hòa, làm mới quan hệ với tha nhân trong tình huynh đệ.
Hành động này thường dẫn người dùng đến những địa chỉ mà ở đó có nhiều người nghèo đang cần sự trợ giúp. Đây là dịp để họ thực hành bác ái. Một mặt, nhiều người hành hương thường mang theo tiền bạc, thức ăn hoặc áo quần để giúp đỡ những người nghèo khổ dọc đường hoặc tại điểm hành hương. Mặt khác, người hương luôn có ý kiến kiến trúc sư hướng dẫn các vấn đề khó khăn của hành trình như lời cầu nguyện cho những ai đau khổ, bệnh tật hoặc đang gặp khó khăn. Cách đặc biệt, trong Năm thánh ảnh hưởng toàn xá, người hành hương luôn nhớ đến các linh hồn cần lòng thương xót của Chúa qua những điều kiện tinh thạch mà họ phải chu toàn để “nhường” may mắn toàn xá cho các linh hồn ấy.
Như vậy, hành hương là một trãi nghiệm toàn diện của đời sống Kitô giáo, nơi đức ái được kết hợp chặt chẽ với đức tin và đức tin. Tình yêu được nuôi dưỡng qua sự tín thác vào Thiên Chúa và hy vọng rằng hành trình này sẽ mang lại ơn thiêng cho bản thân cũng như tha nhân. Đây là thời gian để người tín hữu sống đức ái một chiều sâu và kỹ lưỡng. Trong hành trình đến với Nhà Chúa, đức ái không chỉ là yêu mến Thiên Chúa mà còn là Hiệp thông với tha nhân, đặc biệt qua việc chia sẻ, nâng đỡ và giúp đỡ những người dễ thương sâu sắc sâu, nghèo khổ… Cứu đó, hành hương không là một chuyến đi “du tâm” hay hành trình của thể lý mà là một hành trình giúp người có tính hữu ích sống mối liên kết yêu thương với Thiên Chúa và mọi người.
5. Hành hương, thời gian loan báo Tin Mừng
Như đã trình bày, hành hương như là lời chứng của đức ái Kitô giáo. Khi người tín hữu thực hành bác ái trong lộ trình hành hương, họ không chỉ làm cho tình yêu của Thiên Chúa hiện diện sống động mà còn trở thành chứng nhân Tin Mừng cho người khác. Nghĩa cử yêu thương, tha thứ và chia sẻ trong hành hương là cách để người chết giới thiệu ái ái giáo dục với thế giới, như lời Chúa Giêsu “cứ dấu này mà mọi người đều biết anh em là đệ đệ Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”. [21] Như vậy, hành hương là thời gian thích hợp để người tín hữu cuộc sống sứ mạng loan báo Tin khuyến khích.
Hành hương là lời khen thưởng đức đức công khai bằng hành động. Người tín hữu rời bỏ cuộc sống đời thường để bước vào hành tinh tự nhiên, họ làm chứng cho niềm tin của mình vào Thiên Chúa và khao khát tìm kiếm Người. Điều này có thể khơi dậy tò mò và thắc mắc của những người xung quanh, tạo cơ hội để chia sẻ Tin khuyến khích. Sự hiện diện đông đảo và sốt sắng của các tập đoàn tại các địa điểm thánh cũng là dấu hiệu cụ thể của một Hội thánh sống động và Hiệp nhất. Hành động ấy thể hiện sức mạnh của đức tin, đức tin và đức ái Kitô giáo, Người cuốn những ai chưa biết Chúa đến với Người.
Hành hương là loan báo Tin mừng qua đời sống đức ái. Người tín hữu được mời thực hành bác ái qua các hành động cụ như: Quan tâm đến những người nghèo khó và đau khổ. Đây là cách thực hiện các vấn đề yêu thích của Đức Săn dành cho mọi người. Sự hỗ trợ giữa những người hành hương với nhau cũng là một tâm hồn chứng minh tâm hồn về tình yêu mà Hội thánh mang đến cho thế giới. Như vậy, qua đời sống bác ái, người hành hương vừa làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, vừa giới thiệu Đức Kitô như cội nguồn của tình yêu.
Hành hương là cơ hội để đối thoại và gặp gỡ. Hành động hương tạo điều kiện thuận lợi để người tín hữu gặp gỡ nhiều người thuộc nền văn hóa, tôn giáo và quan điểm khác nhau. Trước đây, đây là cơ hội để chứng tỏ sức mạnh của Tin mừng qua sự hòa bình và tôn giáo. Thầy vì chỉ chiến thắng bằng lời nói, thì sự nhung khách, tôn trọng và hòa đồng của người tín hữu hành hương trở thành dấu chỉ cho Tin khuyến khích. Tiếp đến, đây là cơ hội để trả lời những câu hỏi về ý nghĩa hành hương hoặc niềm tin Kitô giáo cho những người không cùng tôn giáo qua các buổi cử hành phục vụ có dẫn lễ chug, giải thích các lễ nghi, chia sẻ Tin vui vẻ nhẹ nhàng và hiệu quả.
Hành hương gắn liền với cầu nguyện. Những lời cầu nguyện trong tiến trình không chỉ mang tính cá nhân, nhu cầu riêng tư của người hành hương, nhưng vẫn được cộng đồng lễ phục vụ lên Thiên Chúa xin ơn thánh hoá và chúc lành cho công cuộc loan tin Tin mừng Hội thánh. Người có tín hữu xin tiền cài đặt chính mình và cho những ai chưa biết Chúa. Đây là một phần yếu yếu của việc làm báo Tin khuyến khích, vì mọi công cuộc truyền giáo đều bắt nguồn từ Chúa và ân sủng của Người. [22]
Hành hương là dịp để người thực hiện Hiệp thông trong Hội thánh. Nhất là qua các buổi họp nhau thực hiện các công việc đạo đức bình dân, cử hành phục vụ các bí tích đặc biệt là lễ thánh. Hiệp Hiệp nhất trong đức tin và tình huynh đệ của cộng đồng đức tin là lời mời âm thầm nhưng mạnh khỏe, cung cấp nhưng ai chưa tin đã nhận Kitô đến để khám phá vẻ đẹp của Hội thánh.
Qua lời chứng đức tin, đời sống bác ái và cầu nguyện, người tín hữu làm cho chuyến hành hương thành cơ hội để lan tỏa tình yêu và ánh sáng của Đức Kitô cho mọi người. Vì vậy, hành hương không chỉ là cuộc gặp gỡ Thiên Chúa mà còn là người được mời đến với Người qua chính công việc tham gia tích cực vào các buổi cử hành phục vụ như một chứng chỉ đức tin của người tín hữu.
6. Cử hành phụng vụ trong các cuộc hành hương [23]
“Hành hương chủ yếu là một hành động của Phụ tự: thật vậy, khi tiến bước về thần thánh, người hành hương đến gặp gỡ Thiên Chúa để hiện diện trước tôn nhân Người, thờ lạ Người và mở tấm lòng ra với Người”. [24] Cử hành phục vụ tại các địa điểm hành hương, nơi đến của hành trình đức tin, là thời điểm giúp người hành hương gặp gỡ Thiên Chúa, lãnh nhận ân sủng và thể thực hiện Hiệp thông, hướng dẫn người lữ hành về Nguồn Mạch của mọi ân sủng. Các cử hành hành động phục vụ trong hành trinh này giúp họ nhận thức rõ hơn về mục tiêu siêu nhiên: sự sống đời đời. Tham dự các buổi phục vụ và đạo đức bình dân trong chuyến hành hành hương hương, người du hành cảm nhận sâu sắc hơn hành thiêng của Hội thánh hành thông qua chuyến đi thể lý.
“Đền thánh có chức năng chính yếu là Phụ tự. Thực thế, các tín hữu đến nơi này để tham dự các cử hành phụng vụ và các công việc làm đạo đức”. [25] Cho nên, các cử tri phục vụ tại nơi hành hương phải giúp người tín hữu cảm nhận được an ủi về mặt tinh thần và được cảm hóa nhờ các cử hành mà họ tham dự.
Số đông người tín hữu khi đi hành hương đều tích cực đến với bí tích Hòa giải. Phần mục vụ bí tích Hoà giải, cần tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm bọc kín cần thiết cho thú săn, và giúp tiền nhân chuẩn bị thú thú thu thu và nhất là cảm nhận được quàcải chân thành về những lỗi đã phạm tội. “Nhờ bí tích Hòa giải, Thiên chúa thứ tha chúng tôi kiện tội, những kiện kiện hoàn toàn bị xóa; tuy nhiên, vẫn còn đó những dấu vết xấu xa do tội phạm để lại trong quá trình xử lý và cách suy nghĩ của ta. Nhưng lòng thương của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn. Lòng thương trở thành ân của Chúa Cha, qua trung gian Hiền Thê của Đức, được cho nhân phải vừa phải chịu trách nhiệm giao hòa, sẽ giải quyết người đó là tất cả kết quả của lỗi, để có thể hành động với nguy hiểm và tăng lên trong tình yêu, hơn là lại rơi vào tội lỗi”. [26] Như vậy, qua bí tích Hòa giải, người hành hương ý thức sâu sắc hơn về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, từ đó biết sống yêu thương và tha thứ.
Cử hành Thánh lễ là đỉnh cao và trung tâm của mọi hoạt động mục vụ tại các địa điểm hành hương, vì chính khi cử hành đức đức tin, người hành hương có thể Hiệp thông hoàn toàn với Chúa Kitô. Trong hành hương, Thánh lễ và bí tích Hòa giải đều mang ý nghĩa thần học sâu sắc. Hành trình của người hành hương biểu tượng cho chuyến du hành trần thế của Hội thánh, tiến về Thiên Quốc. Thánh lễ là nơi Hiệp sĩ hiệp nhất với Đức Chết, đưa ra quá trình nghiên cứu. “Trong bí tích Thánh Thể, Tính Hiệp nhất ấy, làm Thiên Chúa, nhưng trở nên nên mối liên kết thần tài với các thánh và các chân tinh, một quân đoàn đông đảo không sao đếm được (x. Kh 7,4 ). Sự thiện thiện của các thánh sẽ hỗ trợ cho tinh luyện của chúng ta, và như vậy, với lời cầu nguyện và cuộc sống của mình, Mẹ Hội có khả năng nâng cao khả năng của con người này bằng sự nhu cầu tinh thần của người khác”. [27] Bí tích Hòa giải giúp họ giải quyết những sai lầm, canh tân đời sống để tiếp tục bước đi trong ân sủng. Do đó, cả hai bí tích này không chỉ là nghi thức phục vụ mà còn là nguồn sống thiêng liêng trong đức tin và trong Hiệp thông với Hội thánh.
Nơi hành hương cũng có thể là nơi mục vụ của bí tích Xức dầu bệnh nhân, có thể được dự liệu cho việc cử hành xức dầu tập thể. “Thật là hợp lý tại một nơi mà lời chào xin lòng thương xót của Chúa trở nên ngu ngốc hơn, các tín hữu có thể được trải nghiệm về sự hiện diện từ ái của Mẹ Hội thánh dành cho con cái mình phải thử làm bệnh tật và tuổi tác”. [28]
Ngoài bí tích Hoà giải, Xức dầu bệnh nhân và Thánh Thể, các bí tích khác cũng được cử hành ít thường xuyên hơn việc cầu nguyện với Giờ Kinh Phụng Vụ, các công việc đạo Đức như lần dây, xoa bóp Thánh giá, Chầu Thánh Thể, rước kiệu… tín hữu được mời cải thiện, giao hòa với Thiên Chúa và cộng đoàn. Qua các cử hành sự, người tích tích cực tham dự, sẽ nhận được ân huệ, đặc biệt là ơn toàn xá trong những dịp đặc biệt như Năm thánh. [29] Ngoài ra, khi cùng nhau tham dự các buổi phục vụ và cầu nguyện chung, người hành hương có thể thực hiện chiều kích Hiệp nhất trong Chúa Kitô, Đầu với các chi thể, cùng nhau cử hành huyền bí đức tin, Hiệp nhất trong niềm tin cậy và trao ban bình an với vui lòng.
Ngoài ra, việc chúc phúc cho người hành hương tại các thánh thần cũng cần được hồng vũ thực hành. “Hội thánh vẫn luôn có thói quen quen chúc lành cho người, nơi yên tĩnh, lương thực và đồ vật […] thực thế, có nhiều tín hữu đến các thánh thần nài ân ân và sự giúp đỡ của Chúa, cũng như sự chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, thường xin các linh mục ban cho họ những lời chúc rất đa dạng […], các vị trí có thể tổ chức các thế tử để tín hữu có thể hiểu được ý nghĩa của các bạn và họ sẽ tự giúp điều chỉnh phù hợp với các câu hỏi được đặt ra từ việc làm xin chúc lành”. [30]
Kết luận
Toàn bộ đời sống của đệ đệ Chúa Kitô là một hành trình tiến về Đền Thánh, Giêrusalem thiên quốc. Đặc vụ của Hội Thánh cũng luôn được cử hành trong tư cách của những người tín hữu đang trên đường hành hương dưới thế tiến về Nhà Cha. Do đó, Phục vụ luôn quan tâm, hướng dẫn công việc của người tín hữu. Hành hương không đơn tĩnh là một sự chuyển thể, nhưng bao hàm chiều kích thần học sâu sắc, được diễn giải rõ ràng qua các cử hành hành hành vụ. Vì là biểu tượng cho một quá trình hành động về Nhà Cha, gặp gỡ Chúa Kitô và cộng đồng các thánh, nên các dịch vụ hành hương luôn được xem như con đường, mà mỗi ngọn lửa đều được đánh dấu và khơi dậy bằng cầu nguyện. cuộc hành trình, có thể rút ngắn hay dài, gần hay xa, đều được xem như hành trình đức tin của mỗi tín hữu Kitô, cho nên Lời Chúa luôn ngọn đèn soi sáng, hướng dẫn, nuôi dưỡng và nâng đỡ hành động khách hương.
Như là hành trình của đức tin, hành hương mời người tín hữu hướng về Thiên Chúa – nguồn mạch của mọi ân huệ và cùng đích tối hậu của cuộc đời. Qua Bí tích Hòa giải, Thánh lễ và các nghi thức đặc biệt xuất phát từ đạo đức bình dân, hành hương giúp tín hữu cảm nghiệm sự hiện diện sống động của Thiên Chúa và nhận ân sủng để thay đổi đời sống.
Đồng thời, hành hương cũng là biểu tượng của Hiệp thông trong Hội thánh. Khi các tín hữu khắp nơi trên thế giới cùng nhau quy tụ về cùng một nơi để cùng nhau ca tụng, tôn giáo vinh danh Chúa là lúc Hội thánh thể hiện rõ các đặc tính của Hội thánh: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Công việc hành hương cũng luôn hướng dẫn người tín dụng về một Hiệp hội hành động: Hiệp thông, tham gia và thi hành sứ vụ. Mọi người cùng nắm tay nhau, giúp đỡ nhau tiến về quê hương vĩnh cửu trên trời.
Cuối cùng, chiều kích thần học Phụ vụ trong hành hương có thể thực hiện nhiệm vụ cánh chung. Hành trình đức tin này mời gọi tín hữu sống thiện và cố gắng trong đức tin, Củng cố vàng đức tin và nhiệt tình trong đức ái, để ngày càng gắn bó hơn với Đức Kitô – Đường, Sự thật và Sự sống. Như vậy, trải nghiệm hương không chỉ là trải nghiệm đá quý mà còn là lời mời biến đổi đời sống và cuộc sống hơn là ơn gọi Hữu hữu trong sự thiện thiện và Hiệp nhất.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 146 (Tháng 3 & 4 năm 2025)
-------------------------------------
[1] X. Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và định hướng , số 287.
[2] Hiến chế Phụng Vụ , số 2.
[3] x. 2 Cr 5,6,
[4] Hiến chế Giáo Hội , số 6.
[5] Đức giáo hoàng hoàng, Bài rèn buổi tối cầu nguyện tại Vương cung thánh đường Thánh chiến vào năm thứ , ngày 05/09/2024.
[6] x. St 10,19; 12,16.
[7] x. St 12-23.
[8] Truyền hình 121, 1-2.
[9] Câu 3,20.
[10] x. Xh 16,35.
[11] x. Mt 2, 1-12.
[12] Quy chế chủ tịch Lễ La , số 308
[13] x. Quy chế chủ tịch Lễ Giảm , số 120.
[14] Mt 7,7.
[15] Phòng 5,5.
[16] x. St 12, 1-4.
[17] x. Xh 16,4-6.
[18] Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Spe Salvi , số 2.
[19] Gc 2, 26.
[20] X. Lc 19, 1-10.
[21] Ga 13,35.
[22] x. Sắc lệnh Ad Gentes , số 10-13.
[23] Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và định hướng , số 265-273.
[24] Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và định hướng , số 286.
[25] Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và định hướng , số 265.
[26] Đức Giáo hoàng Francis, Misericordiae Vultus , số 22.
[27] Đức giáo hoàng Francis, Misericordiae Vultus , số 22.
[28] Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và định hướng , số 269.
[29] Cảm ơn toàn xá là ân huệ của Chúa, qua quyền bính của Hội thánh, giúp người tín hữu được tha thứ hoàn toàn các hình phạt tạm thời sau khi kiện lỗi được tha trong bí tích Hòa giải. Việc lãnh nhận toàn xá Yêu cầu đức tin và tình yêu của người tín hữu, để không chỉ có lợi cho chính mình mà còn có thể cho những linh hồn nơi luyện ngục.
Lãnh chúa nhận ân xá của Năm thánh chính là lòng thương xót của Chúa Cha, được quyết định ơn thứ tha của Ngài tác động trên toàn bộ đời sống tín hữu. Ân xá cũng là cảm giác giác giác của Hội thánh thông báo tất cả hoa trái nơi công trình cứu tế của Chúa Kitô, để ơn thứ tha và tình yêu Thiên Chúa có được những kết quả tuyệt vời nhất.
Cảm ơn toàn xá trong Năm thánh đã được nhận quy định của Hội thánh Công giáo khi các tín hữu thực hiện các điều kiện sau đây, đặc biệt trong bối cảnh hành hương: (1): Thực hiện cuộc hành hương đến địa chỉ được xác định rõ ràng. Trong các năm thánh, Đức hoàng hoặc các giám mục địa phương thường chỉ định các nhà thờ, thánh thần hoặc địa điểm đặc biệt cho các tín hữu hành hương; (2) Thực hiện các công việc đạo đức. Tín hữu cần lãnh Bí tích Hòa giải, tham dự thánh lễ và rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng và đọc một số kinh suy giới như kinh Lạy Cha, kinh Tin kính; (3) Xưng tội và sống trong ơn Chúa. Tín hữu cần thu thập trong thời gian gần với việc hành hương (thường trước, sau hoặc trong chuyến hành hương). Xưng tội giúp đỡ đời sống ân huệ, cần thiết để lãnh ơn toàn xá; (4) Từ bỏ mọi quyến rũ, tội lỗi, kể cả lũ phân tích nhẹ nhàng, ăn dốc lòng nhẹ nhàng, có thể hiện thực hóa cải thiện nội tâm sâu xa.
[30] Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, nguyên tắc và đị nh hướng , số 272-273.
Nguồn: hdgmvietnam.com