
Huấn thị Redemptionis Sacramentum - Bí tích Cứu Chuộc Về Vài Điều Phải Giữ Và Phải Tránh Liên Quan Đến Bí tích Thánh Thể | Phụng vụ | Văn Kiện

Văn Kiện
Huấn thị Redemptionis Sacramentum
Bí tích Cứu Chuộc Về Vài Điều Phải Giữ Và Phải Tránh Liên Quan Đến Bí tích Thánh Thể
Phụng vụ
NHẬP ĐỀ
1. Trong Bí tích Thánh Thể, Mẹ Hội Thánh tin mạnh mẽ và đón nhận vui vẻ, cử hành và tôn thờ BÍ TÍCH CỨU CHUỘC 1, khi loan báo cái chết của Đức Giêsu-Kitô và công bố cuộc phục sinh của Người, cho đến khi Người đến trong vinh quang 2, với tính cách là Chúa và Thầy bất khả chiến bại, Tư Tế vĩnh cửu và Vua hoàn vũ, để trao vào tay Chúa Cha quyền năng vương quốc sự thật và sự sống 3.
2. Bí tích Thánh Thể, - trong đó chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, tức là chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta 4 -, là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn vẹn đời sống Kitô giáo 5; ảnh hưởng của Bí tích Thánh Thể mang tính quyết định ngay từ thuở ban đầu của Hội Thánh 6. Giáo lý của Hội Thánh về đề tài Bí tích Thánh Thể đã được trình bày rất chu đáo và đầy uy quyền, theo dòng thời gian, trong các văn kiện của các Công Đồng và của các Giáo Hoàng. Hơn nữa, mới gần đây, trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, do hoàn cảnh hiện nay của Hội Thánh thúc bách, đã trình bày lần nữa vài điểm rất quan trọng của đề tài này 7.
Để cho thấy cả hôm nay Hội Thánh vẫn quan tâm, như trách nhiệm Hội Thánh phải làm, trên mầu nhiệm cực trọng này, đặc biệt trong việc cử hành Phụng Vụ thánh, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích 8, cùng hợp tác với Bộ Giáo Lý Đức Tin, biên soạn Huấn Thị này, trong đó sẽ bàn đến vài vấn nạn liên hệ đến kỷ luật của Bí tích Thánh Thể. Do đó, các điểm chứa đựng trong Huấn Thị này phải được đọc tiếp nối với Thông điệp Ecclesia de Eucharistia nói trên.
Tuy nhiên, mục tiêu của Huấn Thị không phải là trình bày toàn bộ các quy tắc liên hệ đến Bí tích Thánh Thể cho bằng nhắc lại vài yếu tố chứa đựng trong các quy tắc phụng vụ đã được trình bày và thiết lập trước rồi, mà vẫn còn có giá trị, để củng cố ý nghĩa sâu xa của các quy tắc phụng vụ 9, và đồng thời nêu ra các quy tắc khác, làm sáng tỏ và bổ túc những quy tắc trước, bằng cách giải thích không những cho các Giám Mục, mà còn cho các linh mục, phó tế và mọi giáo dân, hầu mỗi người đem ra thi hành theo phận vụ của mình và theo các khả năng của mình.
3. Các quy tắc chứa đựng trong Huấn Thị này đều nói về các vấn đề thuộc phụng vụ của Nghi Lễ Rôma và những Nghi Lễ Khác của Giáo Hội latinh được luật thừa nhận, với những thay đổi thích hợp.
4. “Không còn nghi ngờ là cuộc canh tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II đã phát sinh lợi ích lớn lao là làm cho tín hữu tham dự ý thức hơn, tích cực hơn và hiệu quả hơn vào Hy Tế bàn thờ” 10. Tuy nhiên, “không thiếu bóng tối” 11. Thật vậy, người ta không thể bỏ qua các lạm dụng, có khi rất nghiêm trọng, nghịch lại bản chất của Phụng Vụ và các bí tích, cũng như nghịch lại truyền thống và quyền bính của Hội Thánh, khiến cho vào thời đại chúng ta các buổi cử hành phụng vụ bị tổn hại nhiều lần ở nơi này nơi kia trong Hội Thánh. Tại vài nơi, sự kiện phạm các lạm dụng trong lãnh vực phụng vụ đã trở thành một thói quen thường xuyên; rõ ràng là không thể chấp nhận những thái độ như thế, chúng phải chấm dứt.
5. Việc tuân giữ các quy tắc, do quyền bính Hội Thánh ban hành, đòi phải được thể hiện trong tinh thần và lời nói, trong thái độ bên ngoài và tâm trạng bên trong. Hẳn nhiên một sự tuân giữ thuần tuý bên ngoài các quy tắc đi ngược lại với chính bản chất của Phụng Vụ thánh, được Chúa Kitô muốn cử hành nhằm qui tụ Hội Thánh Người, để cho Hội Thánh cùng với Người làm thành một thân thể và một tinh thần mà thôi” 12. Vì thế, thái độ bên ngoài phải được soi sáng bởi đức tin và đức ái, làm chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô và với nhau và khơi lên trong chúng ta tình yêu đối với người nghèo và người sầu khổ. Những lời và những nghi thức của Phụng Vụ cũng là cách biểu lộ trung thành, đã được chín mùi theo năm tháng, những tình cảm của Chúa Kitô và chúng dạy chúng ta có cùng những tình cảm như Người 13. Khi làm cho tâm trí chúng ta phù hợp với những lời ấy, chúng ta nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Vậy, tất cả những gì được nói trong Huấn Thị này đều có mục đích khơi lên một sự phù hợp như thế giữa tình cảm của chúng ta với tình cảm của Chúa Kitô, được diễn tả trong các lời và nghi thức của Phụng Vụ.
6. Thật vậy, những lạm dụng như thế “góp phần làm lu mờ đức tin ngay chính và giáo lý công giáo liên quan đến Bí Tích tuyệt diệu này” 14. Chúng cũng ngăn cản “tín hữu sống lại một cách nào đó kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau: “mắt họ mở ra và họ nhận biết Người” 15. Đứng trước quyền năng vĩnh cửu của Thiên Chúa và thiên tính của Ngài 16, cũng như trước sự toả rạng của lòng nhân từ của Ngài, được biểu lộ một cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, các tín hữu phải có được và bày tỏ cảm thức về sự uy nghi của Thiên Chúa, được lộ rõ sáng chói trong cuộc thương khó cứu chuộc của Con Một Ngài 17.
7. Không hiếm trường hợp các lạm dụng bắt nguồn từ một quan niệm sai lầm về tự do. Tuy nhiên, Thiên Chúa không ban cho chúng ta trong Đức Kitô một thứ tự do ảo tưởng muốn làm gì thì làm, nhưng thứ tự do cho phép chúng ta làm điều chính đáng 18. Thật ra, nguyên tắc này không chỉ có giá trị đối với những lời dạy đến trực tiếp từ Thiên Chúa, mà còn đối với những luật do Hội Thánh công bố, dĩ nhiên phải cứu xét tính chất của từng quy tắc. Vậy, mọi người có bổn phận sống phù hợp với những quy định do quyền bính giáo hội hợp pháp thiết lập.
8. Sau nữa, người ta phải buồn phiền ghi nhận sự hiện hữu của “những sáng kiến đại kết, dù được khơi lên bởi ý hướng ngay lành, nhưng đã đi đến những thực hành về Bí tích Thánh Thể ngược với kỷ luật trong đó Hội Thánh diễn tả đức tin mình”. Tuy nhiên, ân huệ Thánh Thể “quá lớn nên không thể chịu đựng những hàm hồ và giản lược”. Vậy nên sửa chữa và xác định một cách rõ rệt hơn một vài yếu tố, để, ngay trong lãnh vực này, “Bí tích Thánh Thể tiếp tục toả chiếu trong sự vĩ đại của mầu nhiệm của mình” 19.
9. Sau cùng, các lạm dụng rất hay bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết, bởi vì người ta thường loại bỏ những điều người ta không nhận ra ý nghĩa sâu xa, và người ta không biết tính cổ xưa. Thế mà, chính từ Thánh Kinh, “dưới sự linh hứng và sự thúc đẩy của Thánh Kinh, mà các lời nguyện, các thánh thi phụng vụ được khai sinh, và chính từ Thánh Kinh mà các hành động và các biểu tượng có được ý nghĩa” 20. Hơn nữa, “Đức Kitô hoặc Hội Thánh đã chọn những dấu chỉ hữu hình dùng trong Phụng Vụ để chỉ những thực tại thần linh vô hình” 22. Sau hết, trong truyền thống của mỗi Nghi Lễ ở cả Đông phương lẫn Tây phương, những cấu trúc và những hình thức của các cử hành thánh hợp với toàn thể Hội Thánh, cũng như đối với những cách thực hành mà mọi nơi nhận được từ truyền thống tông đồ không gián đoạn; cho nên những cách thực hành này phải được Hội Thánh truyền lại cách trung thành và cẩn thận cho các thế hệ tương lai. Tất cả những yếu tố này phải được bảo tồn cách khôn ngoan và được bảo vệ bởi các quy tắc phụng vụ.
10. Chính Hội Thánh không có quyền gì trên những điều Chúa Kitô đã thiết lập, chúng tạo nên phần bất biến của Phụng Vụ 23. Thực thế, nếu người ta cắt đứt dây liên kết giữa các bí tích và chính Chúa Kitô là Đấng đã thiết lập chúng, và nếu người ta không nối kết chúng với các biến cố sáng lập Hội Thánh 24, thì không mang lại gì tốt cho tín hữu, trái lại còn làm cho họ chịu nhiều thiệt thòi. Thật vậy, Phụng Vụ thánh liên kết chặt chẽ với các nguyên tắc tín lý 25; do đó, việc sử dụng các bản văn và các nghi thức không được phê chuẩn, gây nên hậu quả là dây liên kết cần thiết giữa lex orandi và lex credendi bị suy yếu hoặc không còn nữa 26.
11. Mầu nhiệm Thánh Thể quá lớn lao, “nên không ai được tự cho phép hành xử theo ý riêng, mà không tôn trọng đặc tính linh thiêng cũng như chiều kích phổ quát của Mầu nhiệm này” 27. Ngược lại, ai hành động như thế, khi thích theo những xu hướng riêng tư, dù người ấy là linh mục, thì làm tổn hại nghiêm trọng đến tính thống nhất cốt yếu của Nghi Lễ rôma, là điều cần được canh giữ không ngừng 28. Những hành vi thuộc loại này tuyệt đối không tạo nên câu trả lời thích đáng cho cơn đói khát Thiên Chúa hằng sống, mà dân chúng hiện thời đang cảm nghiệm; đàng khác, chúng không có điểm gì chung với lòng hăng hái mục vụ chân thực hoặc trào lưu canh tân phụng vụ đích thực, nhưng đúng hơn chúng mang lại hậu quả là làm các tín hữu mất đi gia sản và di sản của họ. Thực vậy, những hành vi tuỳ tiện ấy không giúp ích cho việc canh tân đích thực 29, nhưng làm hại nghiêm trọng đến quyền chính đáng của tín hữu là hưởng được một hành động phụng vụ diễn tả đời sống của Hội Thánh theo đúng truyền thống và kỷ luật của Hội Thánh. Hơn nữa, những hành vi tuỳ tiện ấy du nhập những yếu tố làm biến chất và gây lộn xộn trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, trong khi Bí tích Thánh Thể, do bản chất và theo một cách tuyệt hảo, có mục đích cho thấy và thực hiện cách diệu kỳ sự thông hiệp vào đời sống của Thiên Chúa và sự thống nhất của dân Chúa 30. Những hành vi ấy gây nên sự bấp bênh về mặt giáo lý, nổi nghi ngờ và gương xấu trong dân Chúa và cũng không tránh khỏi tạo ra những phản ứng quyết liệt, làm bối rối và đau lòng sâu sắc nhiều tín hữu, trong khi vào thời đại chúng ta, đời sống Kitô giáo thường đặc biệt khó khăn vì bầu khí “tục hoá” 31.
12. Ngược lại, mọi tín hữu của Chúa Kitô có quyền hưởng một phụng vụ đích thực - và điều này đúng đặc biệt cho việc cử hành Thánh Lễ - phù hợp với điều Hội Thánh đã muốn và thiết lập, nghĩa là như nó được quy định trong các sách phụng vụ và trong các luật và quy tắc khác. Đàng khác dân công giáo có quyền có Hy Tế Thánh Lễ được cử hành mà không bị biến chất gì, phù hợp toàn vẹn với giáo lý của Huấn Quyền Hội Thánh. Sau cùng, cộng đoàn công giáo có quyền có Bí tích Thánh Thể cực trọng được cử hành sao cho bí tích này tỏ ra thực sự là bí tích hiệp nhất, bằng cách loại bỏ hoàn toàn mọi thứ khiếm khuyết và thái độ, có thể gây nên chia rẽ và lập ra những nhóm ly khai trong Hội Thánh 32.
13. Toàn bộ những quy tắc và những nhắc nhở được trình bày trong Huấn Thị này nằm trong bổn phận của Hội Thánh, vì Hội Thánh có trách nhiệm canh giữ sao cho việc cử hành mầu nhiệm lớn lao này được phù hợp và xứng đáng. Chương cuối của Huấn Thị này trình bày những mức độ khác nhau, theo đó các quy tắc riêng lẻ được nối kết với quy luật tối thượng của toàn bộ Luật của Hội Thánh, đó là chăm sóc phần rỗi các linh hồn 33
CHƯƠNG I: VIỆC ĐIỀU HÀNH PHỤNG VỤ
14. “Việc điều hành Phụng Vụ thánh chỉ thuộc về Giáo quyền, tức Tông Toà và Giám Mục trong quyền hạn luật định” 34.
15. Giáo hoàng, “Đấng Đại Diện Chúa Kitô và Chủ Chăn của toàn thể Hội Thánh trên trái đất, vì nhiệm vụ của ngài, có quyền thường xuyên, tối thượng, toàn vẹn, trực tiếp và phổ quát mà ngài có thể luôn thực thi cách tự do 35, đặc biệt khi giao tiếp với các chủ chăn và tín hữu.
16. Toà Thánh có quyền tổ chức Phụng Vụ thánh của Hội Thánh toàn cầu, biên soạn các sách phụng vụ, nhìn nhận các bản dịch sang tiếng địa phương và chăm lo cho các quy luật phụng vụ được trung thành tuân giữ khắp nơi, đặc biệt những luật quy định việc cử hành Hy Tế Thánh Lễ 36.
17. Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích lo tất cả những gì thuộc Tông Toà liên quan đến việc quy định và cổ võ Phụng Vụ thánh, trước tiên là các bí tích. Bộ để ý đến kỷ luật các bí tích, đặc biệt là tính thành sự và tính hợp pháp của việc cử hành các bí tích. Cuối cùng, “Bộ chú tâm theo dõi để các quy định phụng vụ được tuân giữ đúng đắn, ngăn ngừa các lạm dụng trong lãnh vực này và chấm dứt các lạm dụng khi khám phá ra chúng” 37. Trong lãnh vực này, theo truyền thống của Hội Thánh, phải chú ý đặc biệt đến việc cử hành Thánh Lễ, và việc thờ phượng dành cho Bí tích Thánh Thể, kể cả ngoài Thánh Lễ.
18. Các tín hữu có quyền đòi quyền bính Hội Thánh điều hành Phụng Vụ thánh hoàn toàn và cách hiệu quả, để cho Phụng Vụ thánh không bao giờ thành “sở hữu riêng tư của ai, dù là vị chủ tế hoặc là cộng đoàn nơi đó các Mầu Nhiệm được cử hành 38.
1.GIÁM MỤC GIÁO PHẬN, THƯỢNG TẾ CỦA ĐÀN CHIÊN MÌNH
19. Giám Mục giáo phận là người phân phát chính các Mầu Nhiệm Thiên Chúa trong Hội Thánh địa phương được trao phó cho ngài, nên ngài là người tổ chức, cổ võ và bảo vệ toàn bộ đời sống phụng vụ 39. Thật vậy, “Giám Mục, vì đã lãnh nhận cách sung mãn bí tích Truyền Chức, nên có trách nhiệm phân phát ân sủng của chức tư tế tối cao” 40, cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể mà chính ngài dâng hoặc ngài đảm bảo việc dâng 41, và từ đó Hội Thánh tiếp nhận liên tục sự sống và tăng trưởng” 42.
20. Hội Thánh biểu lộ mình cách rõ ràng nhất mỗi khi các Thánh Lễ trọng thể được cử hành, nhất là tại nhà thờ chánh toà, “với sự tham dự đầy đủ và tích cực của toàn thể dân Chúa, […] trong cùng một kinh nguyện, gần bàn thờ duy nhất nơi giám mục chủ sự”, có linh mục đoàn, các phó tế và các thừa tác viên khác bao quanh 43. Hơn nữa, “mọi cử hành hợp pháp Bí tích Thánh Thể đều do Giám mục điều khiển, vì ngài được trao phó nhiệm vụ dâng lên Tôn Nhan uy nghi Chúa việc phụng thờ Kitô giáo và xếp đặt việc phụng thờ này theo các lệnh truyền của Chúa và theo các luật lệ của Hội Thánh, mà ngài đưa ra cho giáo phận mình những quy định cụ thể, theo sự phán đoán riêng của ngài” 44.
21. Thật vậy, “trong vấn đề phụng vụ, Giám Mục giáo phận có bổn phận đưa ra cho Hội Thánh được trao phó cho mình và trong giới hạn của thẩm quyền mình những quy tắc mà mọi người buộc phải tuân giữ” 45. Tuy nhiên, Giám Mục phải luôn luôn chú ý đừng gây thiệt hại cho tự do thích nghi một cách đúng đắn việc cử hành theo thánh đường, hoặc theo nhóm tín hữu, hoặc theo các hoàn cảnh mục vụ, như các quy luật phụng vụ đã dự liệu, hầu cho toàn bộ nghi thức thánh được thích nghi thực sự với tâm thức người dự 46.
22. Giám Mục điều khiển Hội Thánh địa phương được trao phó cho mình 47, nên ngài có bổn phận quy định, điều khiển, khuyến khích, đôi khi quở trách 48, để, thể theo phận vụ thánh mà ngài đã lãnh nhận ngày chịu chức giám mục 49, ngài xây dựng đoàn chiên trong chân lý và trong thánh thiện 50. Ngài có bổn phận giải thích ý nghĩa đích thực của các nghi thức và các bản văn phụng vụ, và ngài có phận vụ lấy tinh thần Phụng Vụ thánh mà nuôi dưỡng các linh mục, phó tế và giáo dân 51, để tất cả họ cử hành Bí tích Thánh Thể cách tích cực và hiệu quả 52. Sau cùng, Giám Mục cũng lo sao cho toàn bộ thân thể Hội Thánh có thể đồng tâm tiến triển trong sự duy nhất của đức ái trên bình diện giáo phận, quốc gia và toàn cầu 53.
23. Các tín hữu “phải gắn bó với Giám Mục của mình như Hội Thánh gắn bó với Chúa Giêsu Kitô và như Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Cha Người, để mọi sự quy tụ trong hiệp nhất và nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa” 54. Mọi người, kể cả các phần tử dòng tu và Hội tông đồ, cũng như các hiệp hội hoặc phong trào thuộc bất cứ loại nào, phải tùng phục quyền bính của Giám Mục giáo phận trong tất cả những gì liên quan đến Phụng Vụ 55, ngoại trừ những quyền lợi họ có được cách hợp pháp. Vậy, Giám Mục giáo phận có quyền và bổn phận giám sát cần mẫn về phụng vụ và với tư cách đó viếng thăm các thánh đường và nguyện đường, nằm trên lãnh thổ mình, kể cả những thánh đường và nguyện đường được thành lập hoặc được điều khiển bởi các phần tử của các hội nói trên, nếu các tín hữu thường xuyên đến đó 56.
24. Về phần mình, dân Kitô có quyền đòi hỏi Giám Mục giáo phận quan tâm đừng để các lạm dụng len lỏi vào trong kỷ luật của Hội Thánh, nhất là trong những gì liên quan đến thừa tác vụ Lời, việc cử hành các bí tích và phụ tích, việc thờ phượng Thiên Chúa và các thánh 57.
25. Các uỷ ban, các hội đồng do Giám Mục đặt ra với mục đích “cổ xuý hoạt động phụng vụ, cũng như âm nhạc và nghệ thuật thánh trong giáo phận”, phải hành động phù hợp với tư tưởng và các quy luật của Giám Mục, và họ phải dựa vào quyền bính và sự phê chuẩn của ngài mà thi hành cách thích hợp nhiệm vụ của họ 58, hầu quyền bính hữu hiệu của Giám Mục trong giáo phận mình được đảm bảo. Về tất cả những nhóm, các hội, và tất cả những ai đưa ra những sáng kiến trong lãnh vực phụng vụ, thì các Giám Mục phải nhanh chóng tìm hiểu xem các hoạt động của họ cho đến bây giờ có mang lại kết quả tốt không 59; các ngài cần chú tâm nhận định điều gì nên sửa hoặc điều gì nên cải tiến cần đưa vào trong cấu trúc và hoạt động của chúng60, để chúng có được sức mạnh mới. Phải luôn luôn nhớ rằng các chuyên viên cần phải được chọn trong số những người chứng tỏ có đức tin công giáo vững mạnh và được đào tạo kỹ trong những lãnh vực thần học và văn hoá.
2. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
26. Điều nói đến trên đây cũng có giá trị cho các uỷ ban phụng vụ, mà theo yêu cầu của Công đồng 61, được Hội Đồng Giám Mục thành lập. Các thành phần của các uỷ ban này phải là các Giám mục, mà cần phải phân biệt rõ với các chuyên viên trợ lực. Trong trường hợp số các thành viên của Hội Đồng Giám Mục không đủ, và do đó gây khó khăn cho việc tuyển chọn hoặc thiết lập uỷ ban phụng vụ, thì phải bổ nhiệm một hội đồng hoặc một nhóm chuyên viên được đặt luôn luôn dưới quyền chủ tịch của một Giám mục; dù vẫn tận sức chu toàn nhiệm vụ, hội đồng này hoặc nhóm này nên luôn luôn tránh gọi là “uỷ ban phụng vụ”.
27. Từ năm 1970 62, Tông Toà đã cho biết mọi thử nghiệm phụng vụ liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ phải đình chỉ, và Tông Toà đã lặp lại cấm chỉ này vào năm 1988 63. Do đó, mỗi Giám mục, cũng như Hội Đồng Giám Mục, không còn có năng quyền cho phép các thử nghiệm liên quan đến bản văn phụng vụ và những chuyện khác được quy định trong các sách phụng vụ. Để có thể làm những thử nghiệm thuộc loại này trong tương lai, cần thiết phải có phép của Bộ Phụng Tự thánh và Kỷ Luật Bí Tích. Bộ này sẽ chấp thuận bằng văn bản, thể theo đơn xin của Hội Đồng Giám Mục. Một ban phép như thế chỉ cho vì một lý do nghiêm trọng. Trong vấn đề liên quan đến các dự án hội nhập văn hoá trong lãnh vực phụng vụ, phải tuân giữ nghiêm và toàn vẹn các quy luật được thiết lập về vấn đề ấy 64.
28. Mọi quy luật liên quan đến phụng vụ, được một Hội Đồng Giám Mục ấn định, theo các quy tắc của luật, cho lãnh thổ của mình, phải được trình để có recognitio của Bộ Phụng Tự thánh và Kỷ Luật Bí Tích, mà nếu không có thì không mang tính chất bó buộc nào 65.
3. CÁC LINH MỤC
29. Các linh mục, cộng tác viên trung thực, khôn ngoan và cần thiết của hàng giám mục 66, được mời gọi phục vụ dân Chúa, và cùng với Giám mục mình làm nên một presbyterium 67 với những phận vụ khác nhau. “Ở mỗi nơi có một cộng đoàn tín hữu, các linh mục làm cho Giám mục hiện diện một cách nào đó, mà các ngài liên kết với con tim tín cẩn và quảng đại. Các ngài đảm nhận nhiệm vụ và mối quan tâm của Giám mục, thực thi chúng khi chăm sóc hàng ngày các tín hữu”. Và “vì các linh mục tham dự vào chức tư tế và sứ vụ của Giám mục của họ, các linh mục phải coi ngài như cha họ và vâng phục ngài cách kính trọng” 68. Hơn nữa, “vì không ngừng nhắm đến điều thiện ích cho con cái Thiên Chúa, các linh mục phải nhiệt thành góp công sức vào công trình mục vụ của toàn giáo phận, hơn thế nữa của toàn Hội Thánh” 69.
30. “Trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể”, các linh mục có trách nhiệm lớn, vì các ngài chủ toạ in persona Christi, đưa ra chứng từ và phục vụ sự hiệp thông không những đối với cộng đoàn tham dự trực tiếp vào buổi cử hành, mà còn đối với Hội Thánh toàn cầu, luôn luôn có liên hệ với Bí tích Thánh Thể. Phải lấy làm buồn, nhất là từ những năm cải tổ hậu công đồng, vì hiểu sai việc sáng tạo và thích nghi, mà xảy ra nhiều lạm dụng, gây nên đau khổ cho nhiều người” 70.
31. Khi sống phù hợp với sự dấn thân đã cam kết trong nghi thức Truyền Chức thánh và được lặp lại hằng năm trong Thánh Lễ Dầu, các linh mục phải cử hành “sốt sắng và trung thành các mầu nhiệm của Chúa Kitô, đặc biệt trong Hy Tế Thánh Thể và bí tích hoà giải, theo đúng truyền thống của Hội Thánh, để ca tụng Thiên Chúa và thánh hoá dân Kitô” 71. Vậy, các ngài không được đánh mất ý nghĩa sâu xa của thừa tác vụ của mình, khi tuỳ tiện làm biến dạng buổi cử hành phụng vụ bằng các thay đổi, bỏ sót hoặc thêm thắt 72. Thật vậy, như thánh Ambrôsiô nói : “Hội Thánh không bị thương tổn nơi mình, […] nhưng nơi chúng ta. Vậy, hãy coi chừng đừng gây thương tích cho Hội Thánh vì lỗi của chúng ta” 73. Cho nên phải chú ý để Hội Thánh khỏi bị thương tổn vì các linh mục, đã dâng đời mình cách trọng thể cho thừa tác vụ. Ngược lại, các ngài phải trung thành canh chừng, dưới quyền của Giám mục, sao cho các hành vi làm biến dạng phụng vụ không bị người khác phạm phải.
32. “Cha xứ phải chăm lo sao cho Bí tích Thánh Thể trở thành trung tâm của cộng đoàn tín hữu giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho tín hữu được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng các bí tích và đặc biệt làm cho tín hữu thường xuyên đến với Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống Hối; ngài cũng cố gắng dạy họ cầu nguyện, kể cả trong gia đình, và làm cho họ tham dự cách ý thức và tích cực vào phụng vụ thánh mà ngài với tính cách là cha xứ, dưới quyền của Giám mục giáo phận, phải điều khiển trong giáo xứ của ngài, và ngài phải canh chừng đừng để lạm dụng nào len lỏi vào” 74. Để chuẩn bị cách thoả đáng các buổi cử hành phụng vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, cha xứ nên nhờ sự trợ giúp của vài tín hữu, nhưng ngài không được nhường cho họ điều thuộc nhiệm vụ ngài trong lãnh vực phụng vụ.
33. Sau cùng, “mọi linh mục phải lo trau giồi kiến thức và nghệ thuật phụng vụ, để thừa tác vụ phụng vụ của họ giúp các cộng đoàn Kitô hữu được giao phó cho các ngài ca tụng Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần cách luôn luôn hoàn hảo hơn 75. Nhất là, các ngài phải thấm nhuần tâm tình thán phục và kinh ngạc, mà mầu nhiệm phục sinh, được cử hành trong Bí tích Thánh Thể, làm phát sinh trong tâm hồn các tín hữu 76.
4. CÁC PHÓ TẾ
34. Các phó tế “được đặt tay không phải nhằm chức tư tế, mà nhằm việc phục vụ” 77, các thầy phải là những người có tiếng tốt 78, và phải cư xử sao với sự trợ giúp của Thiên Chúa, các thầy được nhìn nhận như là những môn đệ đích thực của Đấng 79 “không đến để được phục vụ, mà để phục vụ” 80 và ở giữa các môn đệ Người “như là người phục vụ” 81. Hơn nữa, các phó tế được củng cố bởi ân huệ Chúa Thánh Thần mà họ đã lãnh nhận khi được đặt tay, để phục vụ dân Chúa, trong sự hiệp thông với Giám mục và linh mục đoàn của ngài 82. Chính vì thế họ phải coi Giám mục như người cha, và phải giúp đỡ ngài, cũng như các linh mục “trong thừa tác vụ lời, bàn thờ và bác ái” 83.
35. Họ đừng bao giờ quên “gìn giữ mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch 84, và công bố đức tin ấy qua lời nói và hành động của mình, với lòng trung thành với Tin Mừng và truyền thống của Hội Thánh” 85. Họ phải phục vụ hết lòng, cách trung thành và khiêm cung, Phụng Vụ thánh là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Hội Thánh, “để mọi người, một khi trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và phép rửa, họ tập họp, ca tụng Thiên Chúa giữa lòng Hội Thánh, tham dự vào Hy Lễ và dùng Bữa Tiệc Ly của Chúa” 86. Vậy mọi phó tế có bổn phận làm cho Phụng Vụ thánh được cử hành theo các quy luật ghi trong các sách phụng vụ được phê chuẩn phải phép.
CHƯƠNG II: SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN VÀO VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1. THAM DỰ TÍCH CỰC VÀ Ý THỨC
36. Việc cử hành Thánh Lễ, hành động của Chúa Kitô và của Hội Thánh, là trung tâm của toàn thể đời sống Kitô hữu cho Hội Thánh phổ quát cũng như Hội Thánh địa phương, và cho mỗi một tín hữu 87, “mà nó tác động cách khác nhau, tuỳ chức thánh, nhiệm vụ và sự tham dự hữu hiệu” 88. Nhờ thế, dân Kitô, “chủng tộc tuyển chọn, chức tư tế vương giả, dân thánh, dân được cứu chuộc” 89 biểu lộ sự đoàn kết và tổ chức phẩm trật của mình” 90. Chức tư tế cọng đồng của tín hữu và chức tư tế thừa tác hoặc phẩm trật, dù giữa chúng có sự khác biệt về yếu tính chứ không chỉ về mức độ, nhưng hướng về nhau; thật vậy, cả hai, theo cách riêng của mình, đều dự phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô” 91.
37. Nhờ phép rửa, mọi tín hữu của Chúa Kitô được giải thoát khỏi tội lỗi mình và nhập hiệp vào Hội Thánh; vậy nhờ ấn tích ghi trên họ bởi phép rửa, họ được đặt cử để thờ phượng theo Kitô giáo 92, để vì chức tư tế vương giả của họ 93 và nhờ kiên trì cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa 94, họ dâng chính mình như của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, xác nhận việc hiến dâng ấy bằng mọi việc làm của họ 95. Họ làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên thế giới, và trước mặt tất cả những ai yêu cầu họ, họ không ngần ngại trả lẽ về niềm hy vọng đời sống vĩnh cửu có trong họ 96. Do đó, việc tham dự của các tín hữu vào buổi cử hành Bí tích Thánh Thể và những nghi thức khác của Hội Thánh không thể chỉ đơn thuần là hiện diện, tệ hơn nữa là thụ động, nhưng phải được xem là một việc thực hành đức tin và phẩm giá phép rửa.
38. Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hy lễ. Giáo lý vững bền của Hội Thánh trên phải được xem là một trong những chìa khoá chính cho việc tham dự của mọi tín hữu vào Bí Tích cực thánh 97. “Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và giá trị hơn một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ” 98.
39. Để thăng tiến và biểu lộ sự tham dự tích cực của tín hữu, các sách phụng vụ mới ban hành đưa ra, theo ý của Công đồng, những lời tung hô của dân chúng, những câu đáp, thánh vịnh, điệp ca, bài hát, cũng như các hành động và cử chỉ, thái độ thân thể, và đã cẩn thận cho giữ thinh lặng thánh vào thời điểm thích hợp, cũng tiên liệu trong luật chữ đỏ những phần thuộc về tín hữu 99. Hơn nữa, còn dành một khoảng rộng cho tự do thích nghi chính đáng, dựa trên nguyên tắc là mỗi buổi cử hành phải được thích nghi với các nhu cầu của tham dự viên, cũng như khả năng, việc chuẩn bị nội tâm và năng lực riêng của họ, theo các năng quyền đã được các quy luật phụng vụ ấn định. Trong mỗi buổi cử hành, có nhiều khả năng trong việc chọn lựa các bài hát, âm điệu, lời nguyện và bài đọc thánh kinh, cũng như trong khung bài giảng, trong việc chuẩn bị lời nguyện tín hữu, trong các lời huấn dụ và trong cách trang trí thánh đường theo mùa phụng vụ. Các yếu tố này phải góp phần vào việc làm nổi rõ hơn các phong phú của truyền thống phụng vụ, và dù vẫn quan tâm đến các nhu cầu mục vụ, chúng mang lại một nét đặc biệt cho buổi cử hành, trong mục đích khuyến khích sự tham dự nội tâm. Tuy nhiên, phải nhớ rằng hiệu năng của các hành động phụng vụ không nằm trong những thay đổi thường xuyên các nghi thức, nhưng thực ra trong việc đào sâu lời Chúa và mầu nhiệm cử hành 100.
40. Tuy nhiên, dù buổi cử hành phụng vụ cần đến sự tham dự tích cực của mọi tín hữu, nhưng không phải vì thế mà nhất thiết mọi người phải làm cái gì khác với những cử chỉ và thái độ thân thể đã được trù liệu, như thể mỗi người phải nhất thiết đảm trách một phận vụ chuyên biệt trong lãnh vực phụng vụ. Đúng hơn phải làm sao cho việc huấn luyện giáo lý lưu tâm sửa chữa những quan niệm và những thực hành hời hợt được phổ biến ở vài nơi, trong những năm gần đây, và quan tâm làm sống động không ngừng nơi tín hữu ý thức thán phục sâu xa đối với tính chất cao vời của mầu nhiệm đức tin này, tức Bí tích Thánh Thể. Thực ra, khi cử hành Bí tích Thánh Thể, Hội Thánh không ngừng “đi từ cái cũ sang cái mới” 101. Thật vậy, trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, cũng như trong toàn bộ đời sống Kitô hữu được múc lấy sức lực nơi Bí tích Thánh Thể và hướng về đó, Hội Thánh, như thánh Tông đồ Tôma, phủ phục, tôn thờ Chúa bị đóng đinh, chết, mai táng và sống lại “trong sự sung mãn của vinh quang thần linh của Người, và Hội Thánh kêu lên mãi mãi : ‘lạy Chúa tôi và Thiên Chúa tôi’” 102.
41. Để khơi dậy, cổ võ và làm lớn mạnh ý thức bên trong phải tham dự tích cực, việc cử hành cần mẫn và lâu dài Phụng Vụ Giờ Kinh tỏ ra rất hữu ích, cũng như việc sử dụng các phụ tích và các việc đạo đức bình dân Kitô giáo. Các thực hành đạo đức này, dù đúng ra không thuộc Phụng Vụ thánh, vẫn có một phẩm giá và tầm quan trọng đặc biệt”, cần phải được duy trì vì mối liên hệ của chúng với tổ chức phụng vụ, nhất là khi chúng được Huấn Quyền phê chuẩn và khen ngợi 103, ở đây phải nhắc đặc biệt đến chuỗi Mân Côi 104. Hơn nữa, vì những thực hành đạo đức này dẫn dân Kitô đến việc lãnh nhận các bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, “cũng như đến việc suy gẫm các mầu nhiệm Ơn Cứu Chuộc chúng ta hoặc bắt chước các gương lành của các thánh, nên chúng góp phần có hiệu quả làm cho chúng ta tham dự vào việc thờ phượng phụng vụ” 105.
42. Cần nhìn nhận rằng Hội Thánh không được thành hình do một quyết định của người trần, nhưng Hội Thánh được triệu tập bởi Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần và Hội Thánh đáp trả bằng đức tin lời kêu gọi nhưng không của Ngài : thật vậy, từ ngữ ekklesia có liên hệ với klesis, nghĩa là “kêu gọi” 106. Vậy người ta không thể hiểu Hy Tế Thánh Thể theo nguyên nghĩa “việc đồng cử hành” của linh mục với dân chúng đang hiện diện 107. Ngược lại, Bí tích Thánh Thể do các linh mục cử hành là một ân huệ “vượt quá một cách triệt để khả năng của cộng đoàn [….]. Để thật sự là một cộng đoàn thánh thể, cộng đoàn tụ họp để cử hành Bí tích Thánh Thể tuyệt đối cần một linh mục đã được truyền chức chủ sự. Mặt khác, cộng đoàn không có khả năng tự ban cho mình thừa tác viên có chức thánh” 108. Cần và khẩn thiết làm mọi cách để loại trừ mọi hàm hồ về vấn đề này, và tìm ra một phương dược cho các khó khăn nảy sinh trong những năm gần đây. Bởi vậy, chỉ nên dùng cách thận trọng kiểu nói như “cộng đoàn cử hành” và những kiểu nói khác tương tự.
2. CÁC PHẬN VỤ CỦA GIÁO DÂN TRONG BUỔI CỬ HÀNH THÁNH LỄ
43. Vì lợi ích của cộng đoàn và của toàn thể Hội Thánh của Chúa, thật đúng và đáng khen việc trong số các giáo dân có vài người thi hành, theo truyền thống, vài phận vụ trong khuôn khổ buổi cử hành Phụng Vụ thánh 109. Nhiều người nên phân phối với nhau những phận vụ cần thực hiện, hoặc những phần khác nhau của cùng một phận vụ 110.
44. Bên cạnh các thừa tác vụ thiết lập là chức giúp lễ và chức đọc sách 111, thì trong số các phận vụ đặc biệt được nói đến ở trên những phận vụ quan trọng nhất là việc giúp lễ 112 và việc đọc sách 113, được trao cho cách tạm thời và những phận vụ khác được mô tả trong Sách Lễ Rôma 114. Cũng cần kể đến phận vụ làm bánh lễ, giặt khăn thánh. Để cho phụng vụ của Hội Thánh được diễn tiến một cách xứng đáng và đứng đắn, mọi người, thừa tác viên có chức thánh hoặc giáo dân, khi thi hành phận vụ của mình phải làm tất cả những gì thuộc bổn phận mình và chỉ những điều đó thôi” 115, cả trong chính lúc cử hành phụng vụ lẫn trong thời gian chuẩn bị.
45. Phải tránh nguy cơ làm lu mờ tính bổ túc giữa hoạt động của giáo sĩ và hoạt động của giáo dân, hầu vai trò của giáo dân không vướng vào điều mà người ta gọi là “giáo sĩ hoá”, và về phía mình, các thừa tác viên thánh không đảm trách cách sai trái điều thuộc riêng về đời sống và hoạt động của giáo dân 116.
46. Giáo dân, mỗi khi được mời gọi góp phần vào buổi cử hành phụng vụ, phải được chuẩn bị thích đáng và được chọn thể theo đời sống Kitô, đức tin, hạnh kiểm và lòng trung thành của họ đối với Huấn Quyền của Hội Thánh. Họ nên được huấn luyện về phụng vụ hợp với tuổi tác, điều kiện, lối sống và trình độ kiến thức tôn giáo của họ 117. Không nên chọn người mà việc chỉ định có thể gây khó chịu cho giáo dân 118.
48. Hoàn toàn đáng khen việc duy trì thói tục có các trẻ nam hoặc thiếu niên phục vụ bàn thờ như là người giúp lễ, và chúng nên được dạy giáo lý thích nghi với việc phục vụ của chúng và theo khả năng của chúng 119. Không nên quên rằng rất nhiều thừa tác viên thánh xuất thân từ giữa hàng các trẻ giúp lễ này 120. Để thoả đáp có hiệu quả hơn các nhu cầu mục vụ của các trẻ giúp lễ, cần thiết lập và cổ xuý cho chúng những hiệp hội, nếu cần kêu gọi sự tham gia và giúp đỡ của cha mẹ chúng. Khi các hiệp hôi thuộc loại này đạt tầm mức quốc tế, Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích nên soạn thảo hoặc phê chuẩn và nhìn nhận quy chế của chúng 121. Các trẻ nữ và phụ nữ có thể được chấp nhận cho phục vụ bàn thờ, thể theo phán đoán của Giám mục giáo phận; trong trường hợp này, phải theo các quy tắc được ấn định cho vấn đề này 122.
CHƯƠNG III: CỬ HÀNH ĐÚNG THÁNH LỄ
1. CHẤT LIỆU BÍ TÍCH THÁNH THỂ
48. Hy Tế Thánh Thể phải được cử hành với bánh không men, làm bằng bột mì tinh và mới vừa chế tạo để tránh mọi nguy cơ hư hỏng 123. Do đó, bánh được chế biến với một chất khác, dù là ngũ cốc, hoặc bánh mà người ta thêm vào một chất khác với bột mì, trong một lượng nhiều đến nỗi theo ý kiến chung, người ta không thể xem đó là bánh bột mì nữa, thì không còn là chất thể thành sự cho việc cử hành Hy Tế và Bí tích Thánh Thể 124. Sự kiện đưa những chất khác vào việc chế tạo bánh dùng cho Bí tích Thánh Thể, như trái cây, đường hoặc mật ong, là một lạm dụng nghiêm trọng. Hiển nhiên các bánh lễ nên được chế tạo bởi những người không chỉ nổi bật về lòng đạo đức, mà còn thông thạo trong lãnh vực này và sử dụng những dụng cụ thích hợp 125.
49. Vì lý do dấu chỉ diễn tả, vài phần của bánh Thánh Thể, sau nghi thức bẻ bánh, nên được phân phát cho vài giáo dân rước lễ. “Tuy nhiên, không hề loại trừ các bánh lễ nhỏ khi người rước lễ quá đông và những lý do mục vụ khác yêu cầu” 126, và hơn nữa có thói quen thường dùng bánh lễ nhỏ không cần phải bẻ.
50. Hy Tế Thánh Thể phải được cử hành với rượu nho tự nhiên, tinh khiết và không bị hư, không pha trộn các chất khác 127. Khi cử hành Thánh Lễ, phải thêm một chút nước vào rượu. Phải cẩn thận bảo quản tốt rượu dùng cho Bí tích Thánh Thể và canh chừng đừng để rượu lễ ra chua 128. Tuyệt đối cấm dùng rượu mà tính xác thực và nguồn gốc có điều đáng ngờ : thật vậy, Hội Thánh đòi hỏi có sự chắc chắn về những điều kiện cần thiết cho tính thành sự của các bí tích. Không có cớ nào có thể biện minh cho việc dùng một thức uống khác, vì không tạo nên một chất thể thành sự.
2. KINH NGUYỆN THÁNH THỂ
51. Chỉ được sử dụng những Kinh Nguyện Thánh Thể có trong Sách Lễ Rôma hoặc được phê chuẩn cách hợp pháp bởi Tông Toà, theo những thể thức và trong những giới hạn mà Tông Toà ấn định. “Không thể dung thứ việc vài linh mục tự cho mình quyền biên soạn Kinh Nguyện Thánh Thể” 129 hoặc thay đổi bản văn đã được Hội Thánh phê chuẩn, hoặc dùng những Kinh Nguyện Thánh Thể khác do cá nhân biên soạn 130.
52. Việc công bố Kinh Nguyện Thánh Thể, tự bản chất là chóp đỉnh của toàn bộ cử hành, được dành riêng cho linh mục thể theo chức thánh. Vậy, thật là một điều sai trái khi cho phó tế, thừa tác viên giáo dân, hoặc một tín hữu hoặc tất cả tín hữu, đọc phần nào đó của Kinh Nguyện Thánh Thể. Vì thế, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc toàn bộ bởi linh mục, và chỉ mình ngài mà thôi 131.
53. Trong khi linh mục chủ tế đọc Kinh Nguyện Thánh Thể, “không được đọc kinh, hát, cũng không được đánh đờn hoặc chơi những nhạc khí nào khác 132, ngoại trừ những lời tung hô của dân chúng đã được phê chuẩn hợp luật, như được nói sau đây.
54. Tuy nhiên, dân chúng luôn luôn tham gia cách tích cực, và không bao giờ hoàn toàn thụ động : “thật vậy, dân chúng kết hợp với linh mục trong đức tin và trong thinh lặng, cũng như bằng những can thiệp được ấn định trong khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể : những lời đáp trong phần đối thoại của Kinh Tiền Tụng, kinh Sanctus, tung hô sau truyền phép và câu tung hô Amen sau vinh tụng ca cuối, cũng như những lời tung hô được Hội Đồng Giám Mục phê chuẩn và Toà Thánh xác nhận 133.
55. Lạm dụng sau đây phổ biến ở vài nơi : Đang khi cử hành Thánh Lễ, linh mục bẻ bánh vào lúc truyền phép. Một lạm dụng như thế trái với truyền thống của Hội Thánh. Phải dứt khoát lên án và cấp bách sửa chữa.
56. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể, không được bỏ nêu tên Đức Giáo Hoàng và Giám mục giáo phận, để tôn trọng một truyền thống lâu đời và biểu lộ sự hiệp thông của Hội Thánh. Thực vậy, “hiệp thông mang tính giáo hội của cộng đoàn thánh thể cũng là hiệp thông với Giám mục của mình và với Đức Giáo Hoàng Rôma” 134.
3. NHỮNG PHẦN KHÁC CỦA THÁNH LỄ
57. Cộng đoàn các tín hữu có quyền yêu cầu, nhất là trong buổi cử hành ngày Chúa nhật, thánh nhạc phải xứng hợp và đích thực, bàn thờ, các trang hoàng và khăn thánh phải luôn luôn toả chiếu sự trang trọng, đẹp đẽ và sạch sẽ, theo đúng các quy luật.
58. Mọi tín hữu có quyền đòi việc cử hành Bí tích Thánh Thể phải được chuẩn bị chu đáo trong mọi giai đoạn, lời Chúa phải được công bố và giải thích cách đứng đắn và hiệu quả, năng quyền chọn lựa các bản văn phụng vụ và các nghi thức phải được thực thi cách cẩn thận, theo đúng các quy định, và trong lúc cử hành Phụng Vụ, các lời bài hát phải bảo tồn và nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu.
59. Cách làm đáng lên án sau đây phải ngưng ngay : đây đó có trường hợp linh mục, phó tế hoặc tín hữu tự ý đưa các thay đổi vào trong các bản văn của Phụng Vụ thánh, mà họ có nhiệm vụ công bố. Thật vậy, cách làm ấy gây hệ quả là làm cho việc cử hành Phụng Vụ thánh không bền vững, và không hiếm trường hợp nó đi đến mức làm sai lạc ý nghĩa đích thực của Phụng Vụ.
60. Trong buổi cử hành Thánh Lễ, phụng vụ Lời và phụng vụ Thánh Thể liên kết chặt chẽ với nhau, và làm nên một hành vi thờ phượng duy nhất mà thôi. Vậy không được phép tách rời chúng, cũng không được cử hành chúng vào hai thời gian và hai địa điểm khác nhau 135. Cũng không được phép cử hành các phần khác nhau của Thánh Lễ vào hai lúc khác nhau, dù là trong cùng một ngày.
61. Về việc chọn các bài đọc thánh kinh phải công bố trong buổi cử hành Thánh Lễ, người ta phải tuân giữ các quy luật ghi trong các sách phụng vụ136, để thật sự “bàn tiệc lời Chúa được dọn cho tín hữu cách dồi dào hơn, và các kho tàng thánh kinh được mở ra cho họ cách rộng rãi hơn” 137.
62. Không được phép bỏ hoặc tuỳ tiện thay đổi các bài đọc thánh kinh đã được quy định, cũng không được thay thế “các bài đọc và thánh vịnh đáp ca chứa đựng lời Chúa bằng những bản văn khác được chọn ngoài Thánh Kinh” 138.
63. Trong buổi cử hành Phụng Vụ thánh, bài Tin Mừng “là chóp đỉnh của phụng vụ Lời” 139, nên được dành cho thừa tác viên có chức thánh 140, theo truyền thống của Hội Thánh. Vậy không được phép để cho một giáo dân, kể cả tu sĩ, công bố Tin Mừng trong buổi cử hành Thánh Lễ, cũng như trong các trường hợp khác, mà quy luật không minh nhiên cho phép làm thế 141.
64. Bài giảng được ban bố trong buổi cử hành Thánh Lễ và là thành phần của phụng vụ 142, thường do chính vị linh mục chủ tế hoặc một linh mục đồng tế đảm trách, đôi khi cũng do một phó tế làm, nhưng không bao giờ do một giáo dân 143. Trong những trường hợp đặc biệt và có lý do chính đáng, một Giám mục hoặc một linh mục tham dự buổi cử hành mà không đồng tế cũng có thể giảng” 144.
65. Cần nhắc lại là Giáo luật khoản 767 # 1 đã bãi bỏ mọi quy luật trước đây cho phép các tín hữu không có chức thánh giảng trong buổi cử hành Thánh Thể 145. Thật vậy, sự cho phép như thế phải bị lên án mạnh mẽ, và không có tập tục nào có thể biện minh cho việc ban phép ấy.
66. Việc cấm giáo dân giảng trong Thánh Lễ cũng áp dụng cho các chủng sinh, các sinh viên thần học, những ai giữ phận vụ “trợ tá mục vụ”, và bất cứ loại nhóm, phong trào, hiệp hội giáo dân 146.
67. Đặc biệt, phải quan tâm để bài giảng tập chú nghiêm túc trên mầu nhiệm cứu độ, trình bày theo năm phụng vụ và đi từ các bài đọc thánh kinh, các mầu nhiệm đức tin và các quy tắc của đời sống Kitô, hay là chú giải các bản văn của phần Thường Lễ hoặc phần Riêng, hoặc nghi thức nào khác của Hội Thánh 147. Dĩ nhiên là mọi giải thích Thánh Kinh phải dẫn đến Chúa Kitô, vì Người là trục tối thượng của nhiệm cục cứu độ; tuy nhiên, bài giải thích cũng phải lưu ý đến bối cảnh đặc biệt của buổi cử hành phụng vụ. Người giảng phải chú ý dọi ánh sáng Chúa Kitô trên các biến cố cuộc đời. Dù thế ngài không được bỏ qua ý nghĩa đích thực và thật sự của lời Chúa, chẳng hạn chỉ quy chiếu về những khía cạnh chính trị hoặc chỉ dùng những lý lẽ phàm tục, hoặc lấy hứng từ những ý niệm mượn từ những phong trào nguỵ tôn giáo nhan nhãn trong thời đại chúng ta 148.
68. Giám mục giáo phận phải để ý đến bài giảng 149 bằng cách đưa ra các quy luật, các định hướng và trợ giúp cho các thừa tác viên thánh, cũng như khuyến khích những buổi gặp gỡ và những sáng kiến khác, để họ thường xuyên có cơ hội suy tư về bản chất của bài giảng và giúp họ chuẩn bị bài giảng.
69. Trong Thánh Lễ, cũng như trong mọi cử hành Phụng Vụ thánh khác, không được phép sử dụng một Kinh Tin Kính không có trong các sách phụng vụ được phê chuẩn hợp lệ.
70. Các lễ phẩm mà tín hữu có thói quen dâng trong Thánh Lễ không nhất thiết chỉ là bánh và rượu, dùng vào việc cử hành Bí tích Thánh Thể, mà chúng cũng có thể gồm những tặng vật khác, được tín hữu mang đến, nghĩa là tiền bạc hoặc những của cải khác dùng vào việc bác ái cho người nghèo. Tuy nhiên, những lễ phẩm thực tiễn phải luôn luôn là biểu lộ hữu hình của lễ dâng đích thực mà Chúa chờ đợi nơi chúng ta : một tấm lòng thống hối và tình yêu Chúa và tha nhân, làm chúng ta tương hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Đấng đã nộp mình vì chúng ta. Thật vậy, chính trong Bí tích Thánh Thể mà toả chiếu ở mức cao nhất mầu nhiệm tình bác ái, mà Chúa Giêsu Kitô đã bày tỏ trong bữa Tiệc Ly, khi Người rửa chân cho các môn đệ. Tuy nhiên, để bảo tồn phẩm giá của Phụng Vụ thánh, các lễ phẫm thực tiễn phải được tiến dâng một cách đứng đắn. Vì thế tiền bạc, cũng như những tặng vật khác dành cho người nghèo, phải được đặt ở một nơi thích hợp, ngoài bàn thờ 150. Ngoài tiền bạc và một phần nhỏ những tặng vật khác như là dấu chỉ cho những ân huệ quan trọng hơn, nên dâng những tặng vật này ngoài Thánh Lễ.
71. Phải duy trì thói tục của Nghi Lễ Rôma trao bình an trước khi cho Rước Lễ, như được dự liệu trong Nghi thức Thánh Lễ. Thật vậy, theo truyền thống của Nghi thức Rôma, thói tục ấy không mang nét hoà giải, hoặc tha thứ tội lỗi, mà đúng hơn có mục đích biệu lộ hoà bình, sự hiệp thông và tình bác ái, trước khi lãnh nhận Thánh Thể 151. Ngược lại, nghi thức thống hối đầu Thánh Lễ, đặc biệt nếu được làm theo hình thức thứ nhất, mang đặc tính diễn tả sự hoà giải giữa các anh em.
72. “Mỗi người nên chúc bình an một cách giản dị cho những người kế cận”. “Linh mục có thể trao bình an cho các thừa tác viên, tuy nhiên phải đứng trên cung thánh, để khỏi làm xáo trộn buổi cử hành. Ngài cũng có thể trao bình an cho vài tín hữu, nếu ngài muốn và khi có lý do chính đáng”. “Hội Đồng Giám Mục ấn định dấu chỉ bình an phải trao, theo tâm thức, thói quen và tập quán của các dân tộc và được Tông Toà xác nhận” 152.
73. Trong buổi cử hành Thánh Lễ, việc bẻ bánh Thánh Thể bắt đầu sau khi trao bình an, trong lúc đọc kinh Agnus Dei. Việc bẻ bánh chỉ do linh mục chủ tế thực hiện, và nếu cần, có sự trợ giúp của một phó tế hay một vị đồng tế, nhưng không bao giờ một giáo dân. Thật vậy, cử chỉ bẻ bánh “được Chúa Kitô thực hiện trong bữa Tiệc Ly và từ thời các Tông đồ đã ban tên gọi cho toàn bộ hành động thánh thể, cử chỉ này có nghĩa là nhiều tín hữu khi hiệp thông vào tấm bánh sự sống duy nhất, là Chúa Kitô, chết và sống lại vì phần rỗi thế gian, thì trở nên một thân thể (1 Cr 10, 17)” 153. Chính vì thế, phải làm nghi thức này với lòng tôn kính sâu xa 154. Tuy nhiên, không nên kéo dài quá đáng. Phải mau chóng sửa chữa lạm dụng đang phổ biến ở vài nơi là kéo dài nghi thức này quá mức cần thiết, và nhờ đến sự trợ giúp của giáo dân, ngược với các quy luật, và gán cho nghi thức này một tầm quan trọng quá mức 155.
74. Nếu cần thiết cho một giáo dân thông báo tin tức hoặc đưa ra một chứng từ sống đời Kitô hữu cho các tín hữu tụ họp trong thánh đường, thì cách chung nên làm ngoài Thánh Lễ. Tuy nhiên, vì những lý do quan trọng, được phép đưa ra loại tin tức ấy hoặc chứng từ khi linh mục đã đọc xong lời nguyện Hiệp Lễ. Dầu vậy, một cách làm như thế không nên trở thành thói quen. Hơn nữa, những tin tức và chứng từ đó không được mang những tính chất có thể gây lẫn lộn với bài giảng 156, cũng như không là lý do để bỏ không giảng.
4. VIỆC KẾT HỢP NHỮNG NGHI THỨC KHÁC VỚI CỬ HÀNH THÁNH LỄ
75. Vì một lý do thần học gắn liền với việc cử hành Bí tích Thánh Thể hoặc một nghi thức đặc biệt, các sách phụng vụ truyền hoặc đôi khi cho phép việc cử hành Thánh Lễ được liên kết với một nghi thức khác, đặc biệt những nghi thức của các Bí Tích 157. Tuy nhiên, Hội Thánh không chấp nhận một sự liên kết như thế trong những trường hợp khác, đặc biệt khi lý do không được sâu xa.
76. Hơn nữa, theo truyền thống rất cổ của Hội Thánh Rôma, không được phép liên kết Bí tích Thống Hối với Thánh Lễ thành một hành động phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên, điều trên không ngăn cấm vì nhu cầu của tín hữu, các linh mục không cử hành hay đồng tế Thánh Lễ có thể nghe tín hữu xưng tội, cùng lúc và trong cùng nơi cử hành Thánh Lễ 158. Tuy nhiên điều này nên diễn tiến cách thích hợp.
77. Tuyệt đối không được phép nối kết việc cử hành Thánh Lễ với một bữa ăn thường, cũng không được liên kết Thánh Lễ với một bữa tiệc. Ngoại trừ trường hợp tối cần thiết, không được phép cử hành Thánh Lễ trên một bàn ăn 159, hoặc trong một nhà ăn, hoặc trong một nơi được dùng vào mục đích ăn uống, cũng như trong bất cứ chỗ nào có thức ăn, những người dự Thánh Lễ cũng không được phép ngồi vào bàn trong lúc cử hành. Nếu, trong trường hợp tối cần thiết, phải cử hành Thánh Lễ trong cùng nơi mà người ta dự kiến sẽ dùng bữa sau đó, thì phải giữ một khoảng thời gian giữa cuối Thánh Lễ và đầu bữa ăn, và cấm trình diện thức ăn cho tín hữu trong lúc cử hành Thánh Lễ.
78. Không được phép kết hợp việc cử hành Thánh Lễ với những sự kiện có tính chính trị hoặc phàm tục, hoặc với những yếu tố hoàn toàn không phù hợp với Huấn Quyền của Hội Thánh công giáo. Hơn nữa, để Bí tích Thánh Thể khỏi đánh mất ý nghĩa đích thực của nó, tuyệt đối tránh cử hành Thánh Lễ với chỉ ước muốn trình diễn, hoặc cử hành Thánh Lễ theo cung cách những lễ nghi khác, nhất là những lễ nghi phàm tục.
79. Sau cùng, phải mạnh mẽ lên án việc làm sai trái đưa vào trong việc cử hành Thánh Lễ những yếu tố vay mượn từ những nghi thức của các tôn giáo khác, ngược với các chỉ thị của các sách phụng vụ.
CHƯƠNG IV: RƯỚC LỄ
1. NHỮNG TRẠNG THÁI PHẢI CÓ ĐỂ RƯỚC LỄ
80. Như đã được nêu rõ trong các phần khác nhau của Thánh Lễ, Bí tích Thánh Thể cũng phải được trình bày cho tín hữu như là “phương thuốc giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi phạm tội trọng” 160. Hành vi thống hối, nằm ở đầu Thánh Lễ, có mục đích giúp các người tham dự dọn mình cử hành các mầu nhiệm thánh cách xứng đáng 161; tuy nhiên, “hành vi ấy không có hiệu năng của bí tích Thống Hối 162, và không thể thay thế cho bí tích Thống Hối trong việc tha các tội trọng. Các mục tử phải quan tâm sao cho giáo lý Kitô trong lãnh vực này được truyền dạy cho các tín hữu.
81. Hội Thánh cũng có thói quen quả quyết rằng mỗi người cần kiểm thảo chính mình 163, hầu ai ý thức mình đang mắc tội trọng, thì không được cử hành Thánh Lễ, cũng như không rước Mình Thánh Chúa, nếu trước đó không chạy đến với phép Giải Tội, trừ trường hợp có lý do nghiêm trọng và không thể đi xưng tội. Trong trường hợp này, người ấy không được quên rằng mình bị buộc phải ăn năn tội cách trọn, trong đó bao hàm quyết tâm đi xưng tội sớm hết sức 164.
82. Hơn nữa, “Hội Thánh đã ban hành những quy luật nhắm vừa khuyến khích việc các tín hữu thường xuyên và hiệu quả đến với Bàn Tiệc Thánh Thể, vừa xác định những điều kiện khách quan theo đó cấm không cho rước lễ” 165.
83. Chắc chắn thật là tốt nếu tất cả những ai tham dự vào buổi cử hành Thánh Lễ lên rước lễ trong buổi cử hành đó, miễn là họ hội đủ những điều kiện cho phép họ rước lễ. Tuy nhiên đôi khi xảy ra việc tín hữu đến gần bàn thánh quá đông mà không có sự suy xét cần thiết. Vậy các mục tử có bổn phận sửa chữa lạm dụng ấy cách khôn khéo và cương quyết.
84. Hơn nữa, khi Thánh Lễ được cử hành cho một đám đông, hoặc trong những thành phố lớn chẳng hạn, phải chú ý đừng để người không công giáo hoặc người không phải Kitô hữu, lên rước lễ vì không biết, trái với Huấn Quyền của Hội Thánh về phương diện tín lý lẫn kỷ luật. Vậy các mục tử phải báo vào lúc thuận tiện cho những người hiện diện trong buổi cử hành về chân lý và kỷ luật là những điều cần phải được tuân giữ nghiêm ngặt.
85. Các thừa tác viên công giáo ban cách hợp pháp các bí tích cho những tín hữu công giáo mà thôi. Cũng vậy tín hữu công giáo chỉ nhận cách hợp pháp các bí tích từ những thừa tác viên công giáo mà thôi, dĩ nhiên những điều nói đến trong giáo luật điều 844 ## 2, 3 và 4 và điều 861 #2 166 vẫn có hiệu lực. Hơn nữa, những điều kiện nói đến trong giáo luật điều 844 # 4 không thể tách biệt nhau và không được vi phạm bất cứ vì lý do gì 167: vậy các điều kiện ấy cần phải được luôn luôn hội đủ cùng lúc.
86. Phải liên lỉ khuyến khích tín hữu chạy đến với bí tích thống hối ngoài lúc cử hành Thánh Lễ, nhất là vào những giờ ấn định. Như vậy, bí tích này được ban cho họ cách an bình và vì lợi ích thực sự của họ, và họ cũng không bị ngăn trở tham dự Thánh Lễ cách tích cực. Phải dạy bảo những người có thói quen rước lễ mỗi ngày hoặc rất thường xuyên, về tầm quan trọng của việc lãnh nhận bí tích thống hối một cách đều đặn, tuỳ theo khả năng mỗi người 168.
87. Trước khi cho trẻ em rước lễ lần đầu, luôn luôn phải cho các em xưng tội và lãnh xá giải 169. Hơn nữa, việc rước lễ lần đầu phải luôn luôn do một linh mục ban và không bao giờ được lãnh nhận ngoài buổi cử hành Thánh Lễ. Ngoại trừ trong những trường hợp rất đặc biệt, thật ít thích hợp ban rước lễ lần đầu trong Thánh Lễ Tiệc Ly ngày thứ Năm Thánh. Nên chọn một ngày khác, như các Chúa nhật Phục Sinh (từ thứ 2 đến thứ 6) hoặc lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hoặc các Chúa nhật “quanh năm”, vì Chúa nhật được coi cách đúng đắn là ngày của Bí tích Thánh Thể 170. “Các trẻ em chưa đến tuổi khôn” hoặc những người mà cha sở “xét là chưa chuẩn bị đủ” không nên được cho rước lễ 171. Tuy nhiên, hoạ hiếm có trường hợp một trẻ, dù còn nhỏ tuổi, nhưng xét thấy là đủ chín mùi để rước lễ; trong trường hợp này, không nên từ chối cho nó rước lễ lần đầu, miễn là phải dạy dỗ nó đủ.
2. VIỆC CHO RƯỚC LỄ
88. Bình thường các tín hữu rước Thánh Thể trong Thánh Lễ và vào lúc quy định bởi nghi thức cử hành, nghĩa là ngay sau khi linh mục chủ tế rước lễ 172. Linh mục chủ tế có nhiệm vụ cho rước lễ, với sự giúp đỡ của các linh mục khác hoặc các phó tế, nếu có. Không được tiếp tục Thánh Lễ nếu các tín hữu chưa rước lễ xong. Các thừa tác viên ngoại thường có thể giúp linh mục chủ tế, theo đúng các quy định của luật và chỉ trong trường hợp cần thiết 173.
89. Để “nhờ các dấu chỉ, việc rước lễ tỏ ra là sự tham dự vào Hy Tế hiện đang cử hành” 174, các tín hữu nên rước lễ với bánh truyền phép trong Thánh Lễ 175.
90. “Tín hữu rước lễ quỳ hoặc đứng, tuỳ Hội Đồng Giám Mục ấn định, với sự xác nhận của Tông Toà. “Tuy nhiên, khi họ rước lễ đứng, thì khuyên họ trước khi nhận Thánh Thể, nên làm một cử chỉ tôn kính, mà Hội Đồng Giám Mục sẽ ấn định” 176.
91. Về việc cho rước lễ, phải nhắc lại rằng “các thừa tác viên thánh không được từ chối ban các bí tích cho những người xin cách thích hợp, được chuẩn bị đàng hoàng và không bị ngăn trở bởi luật để lãnh nhận” 177. Vậy, mọi người đã chịu phép rửa, không bị ngăn trở bởi luật, phải được cho rước lễ. Do đó không được phép từ chối cho một tín hữu rước lễ chỉ vì lý do người ấy muốn rước lễ đứng hoặc quỳ.
92 Mọi tín hữu luôn luôn có quyền chọn rước lễ nơi miệng 178. Nếu người rước lễ muốn nhận Thánh Thể trong tay, nơi những miền mà Hội Đồng Giám Mục cho phép, với sự xác nhận của Tông Toà, thì người ta có thể ban Mình Thánh cho họ. Tuy nhiên, trong trường hợp này người rước lễ phải nuốt ngay bánh thánh trước mặt thừa tác viên, để đừng ai rời đi mà vẫn cầm Mình Thánh trong tay. Nếu có nguy cơ phạm thánh, thì không được cho rước lễ trong tay tín hữu 179.
93. Phải duy trì tập quán dùng dĩa hứng khi cho tín hữu rước lễ, để tránh bánh thánh, hoặc một mãnh bánh thánh, rơi xuống đất 180.
94. Không cho phép tín hữu “tự mình cầm lấy bánh thánh hoặc chén thánh, càng không được truyền tay nhau” 181. Hơn nữa, về vấn đề này, phải chấm dứt lạm dụng sau đây: trong Thánh Lễ hôn phối, đôi tân hôn cho nhau rước lễ.
95. Giáo dân “đã rước lễ rồi có thể rước lần nữa trong cùng ngày, nhưng chỉ trong buổi cử hành Thánh Thể mà họ tham dự, dĩ nhiên phải tuân theo giáo luật điều 921 # 2 182.
96. Có nơi trước hoặc trong khi cử hành Thánh Lễ, người ta phân phát theo kiểu cho rước lễ những bánh lễ chưa truyền phép hoặc những đồ vật khác có thể ăn được hay không, phải mạnh mẽ lên án cách làm ấy, vì ngược với các chỉ thị của các sách phụng vụ. Thật vậy, điều ấy không hợp với truyền thống của Nghi Lễ Rôma và chứa đựng nguy cơ gây hoang mang trong tâm trí của tín hữu về giáo lý Thánh Thể của Hội Thánh. Nếu ở vài nơi, do một đặc nhượng, có thói tục đặc biệt chúc lành bánh để rồi phân phát sau Thánh Lễ, thì phải rất cẩn thận đưa ra một lời dạy giáo lý thích hợp về ý nghĩa của cử chỉ này. Tuy nhiên, không được phép du nhập những cách làm khác tương tự, và không bao giờ dùng những bánh lễ chưa truyền phép vào một mục đích như thế.
3. VIỆC RƯỚC LỄ CỦA LINH MỤC
97. Mỗi lần linh mục cử hành Thánh Lễ, ngài phải rước lễ tại bàn thờ, vào lúc ấn định theo Sách Lễ. Các vị đồng tế cũng phải rước lễ trước khi đi cho tín hữu rước lễ. Linh mục chủ tế hoặc đồng tế không bao giờ được đợi dân chúng rước lễ xong rồi mình mới rước lễ 183.
98. Việc rước lễ của các linh mục đồng tế phải diễn tiến theo các quy luật ghi trong các sách phụng vụ, và luôn luôn với những bánh lễ được truyền phép trong chính buổi cử hành Thánh Lễ 184; hơn nữa, tất cả các vị đồng tế phải luôn luôn rước lễ dưới hai hình. Cần ghi nhớ rằng, khi linh mục hoặc phó tế đưa bánh thánh hoặc chén cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không nói những câu: “Mình Thánh Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô”.
99.