Diễn tiến lịch sử hình thành Thánh lễ ra sao?
Những tín hữu buổi ban đầu đã cử hành nghi thức “bẻ bánh”
Những tín hữu buổi ban đầu đã cử hành nghi thức “bẻ bánh” (qua từ này, họ có ý nói về Thánh lễ) trong một bữa ăn. Qua đó cộng đoàn hiện diện khi thì nhà người này, ngày khác tại nhà người kia. Đích thực cộng đoàn được xem như là một “đền thờ sống động, di động”.
Rất sớm, người ta đã lồng vào trong bữa ăn những bài thánh ca, những kinh nguyện. Cũng thấy đọc cả Thánh Kinh nữa.
Từ thế kỷ thứ IV, người ta bắt đầu gọi là “Lễ Misa”. Bấy giờ, sau khi hoàng đế Constantin trở lại đạo Công giáo, đã thấy xuất hiện những cộng đoàn đông đảo tín hữu, và rồi việc cử hành chịu ảnh hưởng của vô số nghi thức, định chế, theo lễ hội truyền thống của người Rôma. Y phục lễ hội được dùng thời ấy là khởi điểm của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay.
Dần dà, người ta mất dần ý thức về cộng đoàn và về bữa ăn mà trong đó Đức Kitô là chính lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau đó thì mai mọt thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự vào của lễ hy sinh. Thánh lễ đã trở nên một buổi trình diễn có tính cách thánh thiêng mà thôi.
Vào thế kỷ XII, tín hữu ngẩng đầu để cố “ngó” cho bằng được bánh thánh mà linh mục nâng cao khỏi đầu. Sự tôn sùng đối với cuộc hiện diện đích thực của Chúa nơi Thánh Thể dẫn đến việc trưng bày Thánh Thể trên bàn thờ để cho dân chúng tôn thờ.
Thế kỷ XIII - XIV đã thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Họ “nhìn” Thánh Thể nhưng vẫn rất ít người rước lễ. Phải chờ đến triều đại Đức Giáo Hoàng Pio X, người ta mới ý thức lại việc rước lễ “thường xuyên” (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Tín hữu khá thụ động trong suốt buổi lễ. Năm 1947, Tông huấn “Mediator Dei” (Đấng trung gian của Thiên Chúa) của Đức Pio XII mời gọi cộng đoàn thưa kinh với linh mục cử hành.
Và với Công đồng Vatcanô II, người ta tìm lại sâu xa hơn nữa ý nghĩa của phép Thánh Thể trong đó mọi người Dân Chúa cử hành dưới quyền chủ tọa của linh mục, là bữa tiệc thánh do Chúa thiết tiệc và nghi thức bẻ (chia sẻ) bánh. Mới đây thôi “lòng tôn sùng phép Thánh Thể” vẫn được xem như là “việc riêng cá nhân”, nay thì Thánh lễ phải là hành vi tạ ơn của toàn Dân Chúa.
Rất sớm, người ta đã lồng vào trong bữa ăn những bài thánh ca, những kinh nguyện. Cũng thấy đọc cả Thánh Kinh nữa.
Từ thế kỷ thứ IV, người ta bắt đầu gọi là “Lễ Misa”. Bấy giờ, sau khi hoàng đế Constantin trở lại đạo Công giáo, đã thấy xuất hiện những cộng đoàn đông đảo tín hữu, và rồi việc cử hành chịu ảnh hưởng của vô số nghi thức, định chế, theo lễ hội truyền thống của người Rôma. Y phục lễ hội được dùng thời ấy là khởi điểm của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay.
Dần dà, người ta mất dần ý thức về cộng đoàn và về bữa ăn mà trong đó Đức Kitô là chính lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn. Vài thế kỷ sau đó thì mai mọt thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự vào của lễ hy sinh. Thánh lễ đã trở nên một buổi trình diễn có tính cách thánh thiêng mà thôi.
Vào thế kỷ XII, tín hữu ngẩng đầu để cố “ngó” cho bằng được bánh thánh mà linh mục nâng cao khỏi đầu. Sự tôn sùng đối với cuộc hiện diện đích thực của Chúa nơi Thánh Thể dẫn đến việc trưng bày Thánh Thể trên bàn thờ để cho dân chúng tôn thờ.
Thế kỷ XIII - XIV đã thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Họ “nhìn” Thánh Thể nhưng vẫn rất ít người rước lễ. Phải chờ đến triều đại Đức Giáo Hoàng Pio X, người ta mới ý thức lại việc rước lễ “thường xuyên” (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Tín hữu khá thụ động trong suốt buổi lễ. Năm 1947, Tông huấn “Mediator Dei” (Đấng trung gian của Thiên Chúa) của Đức Pio XII mời gọi cộng đoàn thưa kinh với linh mục cử hành.
Và với Công đồng Vatcanô II, người ta tìm lại sâu xa hơn nữa ý nghĩa của phép Thánh Thể trong đó mọi người Dân Chúa cử hành dưới quyền chủ tọa của linh mục, là bữa tiệc thánh do Chúa thiết tiệc và nghi thức bẻ (chia sẻ) bánh. Mới đây thôi “lòng tôn sùng phép Thánh Thể” vẫn được xem như là “việc riêng cá nhân”, nay thì Thánh lễ phải là hành vi tạ ơn của toàn Dân Chúa.