Clock-Time

Chú Giải Tin Mừng – Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh Năm C (Ga 20, 19-31)

Trong Tin Mừng, Tôma luôn tỏ ra là một người chỉ tin vào lương  tri của mình. Ong thực sự nghi ngờ cả thái độ dấn thân liều mạng của Đức Giêsu. "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu' (Ga 14,5). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Ladarô, thì Tôma chỉ thấy hiện lên sự chết (Ga 11,15-16)...

CHÚ GIẢI TIN MỪNG

CHÚA NHẬT II MÙA PHỤC SINH NĂM C

NGÀY 24/04/2022



Noel Quesson - Chú Giải 

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần... các môn đệ đang tụ họp." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà....
 
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho ta hai lần hiện ra của Đức Giêsu Phục sinh, trong vòng tám ngày. Tự nhiên, chúng ta thích để ý đến cuộc hiện ra lần thứ hai, cuộc hiện ra dành “cho Tôma"... bởi vì chúng ta thường đồng hóa với ông, để thấy trên thực tế mình cũng gần với một kẻ nghi ngờ, "một kẻ yếu tin" . . . và có thể tìm gặp nơi ông một thứ biện minh cho thái độ thiếu lòng tin của ta.
Nhưng thái độ đồng hóa với Tôma không thể ngăn cản chúng ta đọc toàn bộ bản văn.
 
Trước hết, chúng ta cần ghi nhận, việc Đức Giêsu sống động hiện ra vào "Chúa nhật", ngày thứ nhất trong tuần có phải vì ngẫu nhiên không ? Như chúng ta quá biết, các Kitô hữu tiên khởi không phải ngày nào cũng quy tụ. Họ còn phải lo đời sống riêng hằng ngày. Họ không thể lúc nào cũng cùng nhau hiện diện được. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh đã hiện đến trong khung cảnh buổi họp mặt hàng tuần của họ. Có thể chúng ta mắc sai lầm khi coi đức tin như một việc hoàn toàn có tình riêng tư thuộc phạm vi cá nhân mỗi người. Thực sự, việc Đức Kitô phục sinh hiện diện được nhận biết, cảm nghiệm trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ "cùng nhau” hiện diện. . . . "tụ họp".. "trong Giáo hội"...
 
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.
 
Lúc thánh Gioan viết trình thuật trên cũng là thời gian Giáo hội gặp sợ hãi vì bách hại. Các môn đệ của Đức Giêsu có thói quen tụ họp nay ở nhà này, mai ở nhà khác…Họ tiếp đón nhau, cùng nhau kiểm điểm : Có bao nhiêu cuộc rút lui, có bao nhiêu người bỏ đức tin, bỏ nhóm... Họ cũng sợ hãi... Họ đóng cửa, cài then. Nhưng vào mỗi Chúa nhật, thì "Chúa nhật thứ nhất" này, dấu chỉ của phòng Tiệc ly lại được đổi mới : Đức Kitô sẽ lướt qua cách mầu nhiệm giữa các người thuộc về Ngài, "nơi họ sang ở ; tại Ê-phê-xô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Rôma. Phải, mỗi Chúa nhật, là ngày phục sinh ! Lạy Chúa, Chúa đang hiện diện ngay giữa cuộc đời chúng con. Chính Chúa làm cho chúng con được sống. Cho dù không thấy Chúa, chúng con vẫn tin. Lạy Chúa, ngày nay, vì sợ hãi chúng con cũng thích đóng kín cửa. Chớ gì, khi Thần Khí thổi đến, mọi bức tường vây hãm chúng con sẽ sụp xuống và lại đến thời chúng con ca vang ? Nào chúng ta hãy mở của cho Đức Kitô Phục sinh.
 
Trước khi suy niệm sâu xa hơn Đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hãy tự hỏi, Đức Kitô muốn giải phóng và Phục sinh chúng ta khỏi tình trạng bế tắc nào, khỏi tình trạng sợ hãi nào, khỏi tình trạng đóng cửa cài then nào, khỏi tình trạng "chết chóc" nào. Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khỏe, những điều gây khổ đau và tuyệt vọng, khó khăn về gia đình, nghề nghiệp... Đó là nơi họ ở đều đóng kín cửa !"
 
Đức Giêsu nói : "Chúc anh em được bình an !”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông : “Chúc anh em được bình an".
 
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô hữu, không thể là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát... niềm vui đột nhiên nâng cao chúng ta, khi mọi sự đều khả quan, sức khỏe tốt, tuổi trẻ đầy sinh lực, kinh doanh thành đạt, quan hệ bạn hữu và gia đình thỏai mái... Thực sự, niềm vui sống lại là niềm vui chỉ đến "sau” . . . sợ hãi ! Đó là niềm vui và sự bình an phát sinh từ một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (cái chết của một kẻ bị đóng đinh) và kể từ nay trở đi không gì có thể cướp đi khỏi họ : Đó là niềm vui và sự bình an nhờ lòng tin nơi Đức Giêsu.
 
Mỗi buổi họp mừng Chúa nhật. như hôm nay, Đức Giêsu lại chúc bình an cho ta qua tiếng nói của linh mục : "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em". Và Công đồng Vatican II lập lại nghi thức "chào chúc bình an" của truyền thống xa xưa : các Kitô hữu được mời gọi trao bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Bắt tay, ôm hôn, mỉn cười với nhau, trong khi miệng trao đổi : "Bình an của Đức Kitô !". Đó không phải là cử chỉ tầm thường nhưng là thái độ "trở nên Đức Kitô”đối với người bên cạnh …" Khi nhiều người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ”.
 
Như  Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
 
Đó ! Chúng ta đâu có ngờ rằng Chúa đã phát biểu như thế ! Chính Đức Giêsu đang tuyên bố lại với chúng ta những lời trên. Dù tôi có là một người tồi tàn đáng thương, nhưng tôi vẫn là Đức Giêsu được sai giử  đến với anh chị em tôi... y như "Người" đã được Chúa Cha sai gửi. Chúng ta không nên lướt nhanh những lời trên, đừng quá vội liên hệ với Tôma, kẻ nghi ngờ. .Nhưng hãy để ý đến lời của Đức Giêsu trên đây. Hãy tìm hiểu trách nhiệm cao cả mà Người trao phó cho ta : "sứ vụ của Đức Kitô được ủy thác cho Giáo hội, cho chính tôi. Tôi là kẻ được Đức Giêsu sai đi... như Người đã được Chúa Cha sai đến : Tôi cần phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ Latinh và Hy Lạp, rất tiếc "không được dịch ra" : "sứ vụ” có nghĩa "sai gửi" (do từ Latinh là missub)... và từ "tông đồ" có nghĩa là "kẻ được sai đi" (do từ HyLạp là apostolos),... khi tôi gặp một người nào đó, cùng làm việc với tôi, hay trong môi trường sống hằng ngày, tôi không chỉ hiện diện với họ nhân danh tôi hay theo ý tôi nhưng tôi được Đức Kitô sai đến với họ, nhân danh Người và theo ý Người, như thế Chúa Cha đã sai Đức Giêsu như thế ! Tôi cần phải loan báo cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu : chính Người sẽ nói với bạn điều tôi sắp nói với bạn... Người đang sống trong tôi.. Tôi là môi miệng, là thân thể của Người, đang kề cận với bạn, để mạc khải cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
 
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần".
 
Đó là ân huệ của Thần Khí, là "cuộc tạo dựng mới" . . . Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, đã trở về với Chúa Cha. Đến lượt các Kitô hữu tiếp tục công việc của Người ! Họ là những người mang hơi thở sống động, mang Thần Khí của Người... Họ sắp tiếp nối công trình của Người. Thánh Phaolô nói: "Anh em là Thân thể của Đức Kitô. ... Anh em là Đền thần của Thánh Thần..". Còn thánh Gioan minh chứng cho ta, Đức Giêsu tiếp tục cử chỉ của Creator Spiritus...Lạy Thần Khí tác tạo, xin hãy đến !”.
 
Theo thánh Gioan, Lễ Hiện xuống, đó là buổi chiều Ngày Phục sinh : cốt yếu mọi hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng tử thần, đó là ân huệ của "Thần khí đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong cõi chết" (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính, ta tuyên xưng về Thần Khí : Ngài là Đức Chúa, là Đấng ban sự sống". Thần Khí được trao ban cho con người vào buổi chiều Phục sinh, sẽ tỏ hiện cách công khai rực rỡ năm mươi ngày sau đó vào Lễ Hiện xuống. Đó là thần khí của Thiên Chúa vừa biểu lộ quyền năng của mình, để lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần và mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ biến cố Phục Sinh. Xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần,  Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa" (Rm 1,4).
 
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.
 
"Thắt buộc" và "tháo cởi"... "Tha giải" và "cầm giữ" tội lỗi. Đó chỉ là hình thức ngữ pháp theo kiểu nói A-ra-mên : Theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác định mạnh hơn một thực tại, và nhấn mạnh đến từ mang tính tích cực. Như thế, trong khi trao ban Thần Khí của mình, Đức Giêsu cũng thông truyền cho các môn đệ quyền "tháo cởi con người khỏi sự ác" . Từ nay, ngay tại trần gian này, họ đã là người mang "lòng thương xót của Thiên Chúa"... nhờ Đức Giêsu là hiện thân ? "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em .". Các Kitô hữu được trao ủy cho chính sứ vụ mà Đức Giêsu tự nhận là của mình, lúc Ngài hiện diện tại Hội đường Nadarét, khởi đầu tác vụ : "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân Chúa, trả lại tự do cho người bị áp bức (Lc 4, 18- 19). Tôi có là người mang Thần Khí đó , Thần Khí giải phóng, Thần Khí ban sự sống, Thần Khí yêu thương và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không ? Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
 
Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tôma, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến... Ông ta nói với họ : "Nếu tôi không thấy... tôi chẳng có tin".
 
Đó là một "kẻ đến chậm". Ong đến sau buổi gặp gỡ.
 
Trong Tin Mừng, Tôma luôn tỏ ra là một người chỉ tin vào lương  tri của mình. Ong thực sự nghi ngờ cả thái độ dấn thân liều mạng của Đức Giêsu. "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu' (Ga 14,5). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Ladarô, thì Tôma chỉ thấy hiện lên sự chết (Ga 11,15-16).
 
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến và nói : Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đừng cứng lòng nữa...".
 
Dù đã Phục sinh, Đức Giêsu vẫn tỏ ra khôi hài ! Trong suốt một tuần lễ, Người đã để cho Tôma bề ngoài xem ra  có lý lắm. Nhưng lúc này tôi thấy như Đức Giêsu vừa mỉm cười khiêu khích, vừa nói với Tôma. Người có vẻ đang nói với ông : Này anh bạn đáng thương của tôi ơi, anh cứ tưởng tôi đã chết và hết hiện hữu, khi anh quả quyết với các bạn hữu rằng anh chẳng có tin đâu... nhưng chính lúc đó, tôi vẫn hiện diện cách vô hình, chứng kiến các anh đàm luận. Tuy nhiên, tôi đã không tỏ mình ra cho anh, ngay lúc đó . Oi Thiên Chúa thật là kiên nhẫn, Người làm chủ thời gian của Người.
 
Ong Tôma thưa với Người : "Lạy Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của con".
 
Đó là tiếng kêu biểu lộ lòng tin của một người không cần đến "sờ chạm" nữa. Ong đã hiểu rằng, Đức Giêsu, dù bề ngoài không thấy, vẫn hiện diện đó ? Người có mặt ngay cả vào giờ phút họ nghi ngờ xao xuyến.
 
Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
 
Một mối phúc, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể "thấy" đước những thực tại siêu việt nhất của Thiên Chúa. Chỉ có "đức tin" mới dẫn chúng ta vào những thực tại đó. Và đó là hạnh phúc đích thực.

Giáo phận Nha Trang - Chú Giải

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”
 
I. Ý CHÍNH:
 
Bài tin mừng này Goan thuật lại hai lần Chúa hiện ra vói các Tông đồ cách nhau một tuần.
Một lần hiện ra ngay chính buổi chiều ngày Chúa sống lại không có mặt Tôma.
 
Và một lần có mặt Tôma.
 
Mục đích Chúa Giêsu hiện ra là làm cho các Tông đồ tin rằng là Người đã sống lại thật.

1.“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần”:

Theo cựu ước, ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày sau ngày Sabát. Thời Tân Ước, Giáo Hội lấy ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa Nhật, là ngày lễ nghỉ,ngày Chúa Phục sinh.

- Những cửa nhà các môn đồ họp đều đóng kín, vì sợ người Do Thái:

Từ khi có biến cố ngôi mộ trống vào ngày thứ nhất trong tuần, dân chúng thì xôn xao, nhà cầm quyền điên đầu vì khó xử, các môn đệ nửa tin nửa ngờ nên quy tụ nhau để bàn bạc, càu nguyện, nhưng vì có tiếng đồn là các môn đệ đã lấy trộm xác Chúa nên các Ngài sợ bị theo dõi, nên đã đóng kín các cửa phòng họp.

2. “Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông và nói”:

- Việc Chúa Giêsu hiện đến trong phòng đóng cửa kín nói lên rằng thân xác Phục sinh của Chúa Giêsu không còn bị giới hạn bởi không gian nữa.

- Việc “Chúa hiện đến đứng gữa các ông và nói” đã nêu lên ý nghĩa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết thì bây giờ đã sống lại thật.

3. “Bình an cho các con”:

Đây là một kiểu nói không những diễn tả  tâm tình mà còn diễn tả việc ban các phúc lành của thiên chúa. Vì từ khi phục sinh, việc ban tặng phúc lành này thực hiện điều Chúa Giêsu đã hứa (14,27 ; 16,33):hai lần hiện ra với các Tông đồ, Chúa Giêsu đều ban tặng phúc lành này.

4. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”:

Việc cho xem các vết thương có mục đích cho thấy có sự liên tục giữa thân xác Chúa đã chịu khổ nạn và Chúa đã phục sinh.

5. “như cha đã sai thầy, thầy cũng sai các con”:

Chúa xác định về giá trị của ơn gọi để làm phấn khời các môn đệ:

. Việc sai các môn đệ đi vào thời gian sau Phục sinh, chứng tỏ biến cố Phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mạng của các môn đệ.

. Ơn gọi của cá môn đệ rập theo khuôn mẫu ơn gọi của Chúa Giêsu.

. Trong bài Tin Mừng không thấy Gioan nói đến sứ mạng phổ quát của các môn đệ là đi giảng dạy muôn dân, có lẽ vì điều này đã được các Tin Mừng nhất lãm nói trước rồi (Mt 28,19 Lc 24,47; Mc 16,15).

6. “nói thế rồi, Người thổi hơi”:

Tác động này tượng trưng việc tạo dựng con người(St2,7) và cho thấy ở đây cũng có thể kể như một cuộc tạo dựng mới, đó là cuộc tạo dựng trong Thánh Thần.

7. “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”:

. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người khi tạo dựng Adam(St2,7; Ed 37,5.9) và ban sự sống. Nay Đức Kitô sống lại cũng thổi thần khí vào các môn đệ. Các ông nhận lấy Thánh Thần của Người. Để lại thông quyền năng gây sự sống của Thánh Thần cho những ai sẽ tin ào Người nhờ sứ mạng của ông. Đó là công cuộc tạo thành mới cho Đức Kitô sống lại thực hiện nhờ Thánh Thần, trong và qua các môn đệ.

. Các con tha tôi… các con cầm tội ai…: Chúa thiết lập Bí Tích Giải Tội bằng cách ban truyền giải tội cho các môn đệ, quyền này được tiếp tục trong Giáo Hội.

8.“Có ông Tôma gọi là Điđimô không cùng ở với các ông”:

. Tôma biệt hiệu là Điđimô (con sinh đôi) vốn là người có tính thẳng thắn rõ ràng và thực tiễn.

a. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Con đường Thầy đi: Sau này họ cũng sẽ đi, Tôma liền thưa: nhưng chúng con không biết thầy đi đâu, thì làm sao biết được đường lối của Thầy (Ga 14,5).

b. Khi thấy Chúa Giê-su dứt khoát muốn lên Giêrusalem bất chấp nguy hiểm, thì Tôma lại bảo anh em : nào cả chúng ta nữa, hãy lên Giêrusalem chịu chết với Người.

c. Toma vẫn giữ tính đó khi nghe Chúa nói sống lại. Toma đã không căn cứ vào :

- Sự kiện ngôi mộ trống.

- Những bài Thánh Kinh nhất là lời Chúa Giê-su nói trước về sự sống lại.

Ngay cả việc Chúa hiện ra với các môn đệ khác vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nhưng toma đòi những điều khả giác chắc chắn là : nhìn thấy vết đinh, thọc ngón tay vào lỗ đinh…

9.”Tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà có Toma ở với các ông”:

đây là lần thứ hai Chúa hiện ra với các Tông Đồ trong cùng một khung cảnh như lần trước, nhưng lần này có cả toma ở đây như một cái cớ để Chúa Giê-su hiện ra lần này.

việc Chúa hiện ra nói lên người kiên nhẫn chấp nhận những điều kiện toma đưa ra. Nhưng khi Chúa hiện ra, ta không thấy Tin-Mừng nói toma có xỏ ngón tay vào bàn tay như ông đòi hỏi hay không ? nhưng ta hiểu là toma đã không kiểm nghiệm như ông đã đòi hỏi. Chỉ nguyên việc gặp gỡ và nghe lời Chúa đã đủ đánh động con người ông.

10. “Chớ cứng lòng nhưng hãy tin”:

Diễn tả kiểu nói không được tiếp tục công việc đang làm tức là hãy ngừng cứng lòng, nhưng hãy tin. Sự hiện diện của Chúa như một mệnh lệnh bảo Toma đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin vào Người.

11.“Lạy Chúa tôi, lạy Thiên-Chúa tôi”:

Đây là lời tuyên xưng của Toma

*Toma là người môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng Chúa cách đầy đủ nhất : “Lạy Chúa, lạy Thiên-Chúa của tôi”

*Toma thường bị mang tiếng là cứng lòng tin. Nhưng các môn đệ khác ở vào trường hợp như ông tưởng cũng không hơn gì. Đàng khác qua lời tuyên xưng ta thấy nếu toma có yếu kém phần nào về việc tin Chúa sống lại, thì Toma lại đáng khen khi tuyên xưng Người là Thiên-Chúa. Bản tính Thiên-Chúa thì toma đã không trông thấy nhưng ông đã tin.

12 “Phúc cho những ai không thấy mà tin”:

* Cái phúc này đã được áp dụng suốt bộ Cựu Ước cho những kẻ tin vào Thiên-Chúa vào sự hiện diện của họ trong đời của họ.

* Với Chúa Kitô, mối “phúc” này mang ý nghĩa chíng trong Chúa Kitô. Đấng đã Phục Sinh có sự hiện diện của Thiên-Chúa phúc cho những ai tin nhận vào Người.

Vì vậy mối “phúc” này nhắm đến tất cả những kẻ đã tin hay sẽ tin, bắt đầu từ chính các môn đệ, tin nhận Chúa Giê-su là Thiên-Chúa.

13.“Để anh em tin”:

Có nghĩa là : “Để anh em tiếp tục tin”. Vì ở đây nói với những người đã có tin. Nói lời này thánh Gioan muốn củng cố các tín hữu trong đức tin.

III.ÁP DỤNG:

A.Áp dụng theo Tin-Mừng:


Giáo Hội muố dùng bài Tin-Mừng này của thánh Gioan để mời gọi chúng ta suy nghĩ về đức tin.

+ Việc Chúa Giê-su hiện ra hai lần với nhóm mười một Tông Đồ là để củng cố niềm tin cho các ông. Giáo Hội cũng muốn chúng ta suy niệm bài Tin-Mừng để xác tín vào việc Chúa phục sinh hầu cho ta phấn khởi sống theo niềm tin ấy mà hy vọng vào sự phục sinh của mình sau này.

+Biến cố phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mệnh của các Tông Đồ.

Chúng ta chỉ có thể làm Tông Đồ cho Chúa khi chúng ta xác tín vào sự phục sinh của Chúa Giê-su, chúng ta chỉ có thể hướng dẫn người khác về sự sống đời sau khi chúng ta xác tín và sống hướng về sự sống đời sau.
+ Đức tin là nguồn hạnh phúc đích thực của con người vì:

+ Phúc cho những ai  không thấy mà tin.

+ Để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

B. Áp dụng thực hành:

1.Nhìn vào Chúa Giê-su :

a. Chúa Giê-su sống lại nhờ lời người đã hứa.


- Chúng ta thường hứa điều này, dốc quyết điều kia, nhưng chúng ta có dùng ý chí để thực hiện điều mình đã hứa hay dốc quyết không?

b. Chúa Giê-su hiện đến và ban bình an cho các Tông Đồ.

- Chúng ta là người thuộc về Chúa Kitô, khi hiện diện ở đâu, với ai…thì cũng tạo nên sự bình an bằng sự vui vẻ hoà thuận hiệp nhất…ở đó.

c.Chúa Giê-su đã kiên nhẫn và nhân từ đối với sự cứng lòng của Toma :

- Chúng ta có đủ kiên nhẫn và quảng đại, dịu hiền đối với những người có thái độ cứng cỏi đối với chúng ta không ?

2.Nhìn vào Tôma:

a.Những gì ông không thể hiểu, không thể lường, không thể sờ chạm đến đều bị ông chối từ . thật là duy vật chủ nghĩa hạng nặng.

- Phải chăng toma thứ hai chính là tôi !nhưng phúc cho kẻ không thấy mà tin.

- Tôma sau khi đã được cảm nghiệm về Chúa phục sinh, ông đã tin, một niềm tin đầy đủ nhất : “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên-Chúa của tôi”.

+Chúng ta chỉ được vững mạnh về đức tin khi chúng ta có cảm nghiệm về niềm tin đó. Chúng ta tin vào tình thương Chúa khi chúng ta có cảm nghiệm bằng cách đón nhận tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình.

+ từ cứng lòng tin đến xác tín, thái độ của thánh toma là lời mời gọi, lời củng cố và là gương mẫu cho mọi tín hữu :

“Ai chưa thấy hãy tin.

Ai hồ nghi hãy xác tín.

Và như Toma, hãy tuyên xưng :

Đức Giê Su là Thiên-Chúa”.

+ Các Tông Đồ đã khiêm tốn thuật lại sự  “yếu tin, chậm tin” của họ, để chúng ta vững tin và mạnh tin hơn.

+ Tin Đức Giê Su là Thiên-Chúa , bạn có một lẽ sống cho cuộc đời.

Dõi theo gương mẫu và lời người, bạn cải thiện chính mình để xây dựng thế giới và chấp nhận gian nan như gía mua hạnh phúc bất diệt./.

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

Địa chỉ: Số 06, Tôn Đức Thắng, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

Copyright © CHỦNG SINH KHÓA 10