Clock-Time

Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật Tuần XX Mùa Thường Niên Năm A (Mt 15:21-28) | Giáo Phận Phú Cường

Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu "rút lui", "lánh mặt" ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người :..

Chú Giải Tin Mừng
Chúa Nhật XX Mùa Thường Niên - Năm A
TIN MỪNG: Mt 15:21-28

Noel Quesson - Chú Giải

Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về.

Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu "rút lui", "lánh mặt" ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người :

Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.

Đức Giêsu lui về miền Tia và Xi-đon, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng...

Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền Nam xứ Li-băng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.

Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo thờ thần- của dân ngoại. Tia và Xi-đon không còn nằm trong phần đất của Ít-ra-en. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Mát-thêu giới thiệu rõ ràng là "người đàn bà Ca-na-an" để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Ít-ra.-en đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên . . .

“Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi ? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !"

Theo thói quen thường có, Mát-thêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn "phụng vụ” : Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi" dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là : "Kyrie éléisòn mé". Về chữ "Con vua Đa-vít" đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mê-si-a.

Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc : Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Ít-ra-en, với các kinh sư và Pha-ri-sêu từ Giêrusalem đến (Mát-thêu 15,1-20)…và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được. . . cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mát-thêu 7,7).

Nhưng Người không đáp lại một lời.

Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khó ? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền : bà xin Ngài "cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến ?

Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.

Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những "dấu chỉ". Nhưng mọi dấu chỉ" đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pha-ri-sêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mát-thêu 12,24)... còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mát-thêu 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Máccô 1,34-44 - 7,36 - 8,26 - 9,9).

Các môn đệ lại gần xin với Người rằng : "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.

Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao ? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.

Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế , và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao ?

Người đáp : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi”.

Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy ? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa ? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót . (Mát-thêu 9,36 - 14,14 - 15,32).

Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.

Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức : "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi". Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha : Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế . Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.

Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người : Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng..đến một đời sống khác...đời sống của những người khác ?

Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Pa-lét-tin, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mát-thêu 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã được trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mát-thêu 28,18).

Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ "nhỏ bé" giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ , đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ê-dê-ki-en 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy…bà có bằng lòng không ?

Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng : “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !”

Oi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu !

Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao ?

Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Ca-na-an và Đức Giêsu, . có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy : theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi... nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nảy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại…nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.

Còn chúng ta ? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không ? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết "nâng cấp" mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không ? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?

Người đáp : "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.

Quả là khắc nghiệt ! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…

Bà ấy nói : “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".

Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao ? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.

Đức Giêsu đáp : "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà ít-ra-en thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin ? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn "bánh của con cái Thiên Chúa" ? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa ? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…

Nếu Thiên Chúa chọn "một số người", chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Ít-ra-en là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng : Mọi người phải được cứu chuộc ! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế"... cho những người khác (Xh 19,5-6).

Giáo phận Nha Trang - Chú Giải

“Này bà có lòng mạnh tin” (Mt 15,21-28).

I.Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay muốn nói lên rằng đức tin đơn sơ khiêm nhường và trung kiên của người đàn bà ngoại giáo quê ở Canaan là một đức tin gương mẫu cho mọi người trong khi cầu nguyện.

II.SUY NIỆM:

1/ “Ra khỏi đó Chúa Giêsu lui về miền Tyr và Sidon”.

Ra khỏi đó : sau khi làm phép lạ nhân bánh ở Betsaiđa, Chúa Giêsu đã đem các môn đệ đi đến thành Tyr và Sidon.

Tyr và Sidon : là hai thành ở phía tây bắc xứ Galilêa thượng, là miền đất không thuộc quyền Hêrôđê Antipas, một ông vua đã ra lệnh giết Gioan Tẩy Giả. Khi nhắc đến hai thành Tyr và Sidon, mt không có ý nói về khung cảnh địa lý cho bằng muốn nhấn mạnh về ý nghĩa thần học, tức là việc Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy nơi có rất nhiều người Do Thái ở.

“Có một bà quê ở Canaana….”: Canaan là tên chỉ những phần đất không phân định rõ ràng.

+ Canaan là đất hứa của dân Israel đã chiếm được.

+ Canaan cũng chỉ một số bộ lạc còn sót lại ở lẫn với dân Israel.

+ Canaan cũng là tên đất Phên Vi thời Chúa Giêsu. Một bà quê ở Canaan tức al2 quê ở miền Phenêxi này, tuy là người ngoài nhưng bà cũng biết hoạt động của Chúa Giêsu. Theo Mc 3,8 thì danh tiếng Chúa Giêsu đã lan tới miền này và nhờ đó mà biết gọi Chúa Giêsu là con vua Đavit. Bà thường gọi theo kiểu người Do Thái thường gọi, chứ bà không có ý ám chỉ bà là Đấng Thiên Sai.

“Xin thương xót tôi”:

đây là một lời cầu xin đơn sơ, khiêm nhường và tin tưởng, tuy là dân ngoại nhưng bà đã tin vào Chúa Giêsu có quyền chữa cho con bà khỏi quỷ ám. Vì xin ai điều gì thì tin người đó có và làm được điều mình xin.

“con gái tôi bị quỷ ám cực khổ lắm”:

sự khổ cực của người con gái bà này cũng chính là sự khổ cực của bà. Vì thế lời thỉnh nguyện của bà cũng có giá trị như chính lời thỉnh nguyện của con bà. Ơ đây cho thấy ảnh hưởng và tương trợ lẫn nhau : công phúc của người này có ảnh hưởng đến phần rỗi của người khác.

2/ “Nhưng Người không đáp lại lời nào”:

sự thinh lặng của Chúa Giêsu muốn nói lên một đàng vì Người chỉ được sai đến với chiên lạc của Israel, đàng khác, vì muốn thử lòng tin của người đàn bà này. Chính sự thinh lặng của Chúa đã làm nổi bật đức tin mạnh mẽ của bà khp tục kêu xin cho con bà.

3/ “Xin Thầy thương để bà ấy về đi…”:

câu này biểu lộ lòng thương của các môn đệ có tính cách vị kỷ hơn là vị tha. Vì các môn đệ xin Chúa giúp cho bà không phải vì muốn đáp ứng nhu cầu của bà cho rằng vì sợ bà làm phiền hà “vì bà cứ theo chúng ta mà kêu xin mãi”.

4/ “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel”:

Chúa Giêsu muốn nhắc tới sự ủy nhiệm được lãnh từ Thiên Chúa (vì động từ ở thế thụ động chỉ được “sai”, có ý nói Thiên Chúa là chủ động). Sự uỷ nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo, sẽ có ngày Giavê đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Thiên Sai.

Ed 24,23 “trên chúng Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Ngài sẽ là mục tử của chúng”.

Vì thế ở đây Chúa Giêsu muốn loan báo vì mục tử ấy đã đến. Vai trò của Người là tái lại Israel (Giáo Hội ) thành một dân chiên duy nhất, trung tín với Giavê.

Tiếp tục sứ mệnh mục tử của Chúa Giêsu các môn đệ cũng được sai đến với nhà Israel (Mt 10,6).

Chiên lạc nhà Israel : có thể chỉ toàn dân Israel (Mt 10,5-6) hoặc chỉ những người tội lỗi trong dân Israel (Mt 18,12-14). Ơ đây muốn nah61n mạnh Chúa Giêsu chỉ lo cho Israel còn các dân tộc khác thì các môn đệ sẽ lo tiếp (Cv 10,44-48).

5/ “Nhưng bà kia đến lạy Người ..”:

không thất vọng trước thái độ lãnh đạm và lời từ chối có vẻ kỳ thị của Chúa Giêsu, người đàn bà này vẫn một mực kiên trì trong niềm tin tưởng và khiêm nhường qua lời van xin “lạy Ngài xin cứu giúp chúng tôi”.

6/ “không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”.

“Bánh” đây là ơn Chúa ban qua lời giảng dạy và phép lạ Chúa làm.

“Con cái” đây là dân Israel, dân được tuyển chọn.

“chó con” (sách bài đọc chỉ dịch một chữ là “chó con”). Người Do Thái gọi dân ngoại là “chó” vì họ không biết luật Chúa chỗ khác Chúa cũng phán “không nên nén vật thánh cho chó” (Mt 7,6).

Ơ đây Chúa dùng chữ “chó con” có lẽ để cho dịu dàng hơn một chút chăng. Dù sao ở đây cũng nói lên rằng trong chương trình cứu độ, người Do Thái được đặc a7n nghe giảng Tin Mừng trước các dân tộc khác (Rm 1,16.2,9) vì thế lời nói của Chúa Giêsu có vẻ khinh khi này có ý một lần nữa thử luyện lòng tin của người đàn bà ngoại giáo này một lần nữa.

7/ “vâng lạy Ngài vì chó con cũng được ăn”:

diễn tả một lời van xin có tinh tah62n khiêm tốn và tin tưởng.

Khiêm tốn vì bà nhận thức bà không có quyền gì để được đặc ân của Chúa Giêsu vì bà là ngoại giáo.

Tin tưởng vì bà nhận thấy nơi Chúa Giêsu có một lòng thương xót nhân từ của một người có quyền ban cho điều bà xin.

“Mảnh bánh vụn từ bàn chủ rơi xuống”.

Diễn tả một đặc ân nhưng không của Chúa ban.

8/ “này bà có lòng mạnh tin…”:

Chúa đã khen người đàn bà này vì :

Bà đã khiêm tốn nhận thức rằng dân Do Thái được ưu tiên trong chương trình cứu độ và Chúa Giêsu được sai đến trước tiên là vì dân riêng đó.

Dù dân Do Thái được ưu tiên như vậy, nhưng bà vẫn tin rằng các dân tộc khác cũng không bị bỏ rơi, vì thế bà tin tưởng lời van xin của bà sẽ được nhận lời.

“Bà muốn sao thì được vậy”:

ở đây muốn chứng tỏ rằng, trên nguyên tắc ưu tiên cho dân Do Thái trong chương trình cứu độ. Nhưng Chúa cũng mở lối cho dân ngoại được tham dự. Chính đức tin đã đưa dân ngoại vào ơn cứu độ, vì nhờ lòng mạnh tin của bà này mà con bà đã được lành bệnh.

III.ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin Mừng :

Qua bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người đàn bà ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.

B/Áp dụng thực hành :

1/ Nhìn vào Chúa Giêsu :

a) Xem việc Người làm:

+ “Nhưng người không đáp lại một lời nào” : đôi khi Chúa có vẻ làm ngơ trước lời cầu nguyện của ta, không phải để từ chối, nhưng là để tập cho ta thêm kiên nhẫn, khiêm tốn, tin tưởng,. Cầu nguyện là dấu hiệu của lòng tin, nhưng cũng là trường huấn luyện đức tin.

+ Chúa Giêsu lui về Tyr và Sidon : Chúa Giêsu lánh sang miền dân ngoại này là một đàng để tránh sự dòm ngó của vua hêrôđê Antipas là kẻ mới giết Gioan Tẩy Giả và tranh sự đóng hơi của dân chúng mới tôn Người lên làm Vua sau phép lạ nhân bánh, đàng khác để có giờ rảnh để huấn luyện các môn đệ. Tuy nhiên Người vẫn thi hành sứ mạng cứu độ của Người bằng cách chữa lành quỷ ám cho con người đàn bà ngoại giáo này. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta tiếp tục thi hành sứ vụ Tông Đồ của mình, mặc dầu có thể thay đổi hoàn cảnh môi trường và đối tượng phục vụ, miễn sao làm việc cho phù hợp với nhu cầu hiện tại.

b) Nghe lời Chúa nói:

Thầy chỉ được sai đến chiên lạc nhà Israel”

Người Do Thái tự phụ vì truyền thống vì dân riêng của Chúa nên thường cứng lòng tin, trong khi người đàn bà xứ Canaan được Chúa nhận lời vì bà khiêm tốn, khó nghèo trước mắt Thiên Chúa cùng với một đức tin mạnh mẽ. (Lc 18,1-8.Mt 11,12).

“không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con”, Chúa muốn thử luyện đức tin của người đàn bà ngoại giáo này. Đôi khi Chúa cũng thử luyện đức tin của ta bằng cách lơ đi học để cho xảy ra ngược với điều ta xin. Khi đó ta đừng nản lòng nhưng hãy cậy trông và phó thác. Chúa sẽ nhậm lời như nhận lời người đàn bà kiên trì này.

“này bà, bà có lòng mạnh tin”: vì có lòng mạnh tin mà người đàn bà này được Chúa nhận lời, chứng tỏ nhờ đức tin mà được cứu rỗi, đức tin mạnh mẽ đức tin sống động, đức tin kiên trì đem lại ơn cứu rỗi, vì thế chúng ta đừng tự phụ mình là người công giáo, người có đức tin mà được ơn cứu rỗi đâu.

2/ Nhìn vào người đàn bà ngoại giáo :

-Việc Chúa ban ơn theo lời cầu nguyện của người đàn bà xứ Canaan chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi cơ cấu của Giáo Hội Chúa muốn ban ơn thế nào và cho ai là tuỳ ý Người.

“vâng lạy Ngài vì chó con cũng được ăn no”.

cách cầu nguyện đẹp lòng Chúa là cầu nguyện mà không tự cho mình có quyền đòi hỏi, nhưng chỉ cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, như kiểu chó con đợi bánh rơi từ bàn ăn của chủ.

“con gái bà đã được lành” : cầu nguyện là phương thế cần thiết để tự thánh hóa mình(hiến chế Giáo Hội số 40) và để làm việc Tông Đồ (sắc lệnh Tông Đồ 16) nghĩa là cầu nguyện cho người khác như kiểu người đàn bà xứ Canaan đã cầu nguyện cho con mình được khỏi bệnh.

3/ “Nhìn vào Tông Đồ” :

“Xin Thầy thương để bà ấy về đi…”

đây là lời cầu xin có tính cách vị kỷ và vụ lợi nên không được Chúa nhận lời. Khi chúng ta làm việc Tông Đồ bằng hành động hoặc bằng lời cầu nguyện mà có tính cách vị kỷ vụ lợi, không vì nhu cầu phần rỗi của tha nhân thì thực sự không thể đẹp lòng Chúa .

ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE SÀI GÒN

Địa chỉ: Số 06, Tôn Đức Thắng, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh

Copyright © CHỦNG SINH KHÓA 10