Clock-Time

Chú Giải Tin Mừng - Chúa Nhật Tuần IV Mùa Vọng C

 Tin Mừng Lc 1:39-45  Bài Tin-Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, để nói lên vai trò duy nhất của Đức Maria là thân mẫu Chúa Cứu Thế.

CHÚ GIẢI TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG - NĂM C

Lc 1:39-45




Học Viện Giáo Hoàng Piô X
 

CUỘC THĂM VIẾNG (Lc 1,39-45)


1. Được đoản văn phụng vụ trước, đã nói về quyền năng của Đấng tối cao sẽ "bao phủ" (episkiasei) Đức Maria (1,35) hoàn toàn giống như Đám Mây chói sáng "bao phủ" Lều tạm của Môisen (Xac 40,35), tượng trưng việc Giavê hiện diện vinh quang giữa dân Israel. Cách dùng cùng một động từ (episkiazô) trong hai trường hợp gợi lên một sự tương đồng giữa Đức Maria và hòm bia Giao ước. Luca có hiểu như thế không, chúng ta sẽ minh chứng. Thật vậy, việc thăm viếng được liên kết chặt chẽ với 1,35-36 qua việc ghi nhận bà Elizabét già cả son sẻ đã thụ thai, khai triển hình ảnh hòm bia giao ước. Trình thuật, rất mạch lạc, gồm có những nét chọn lọc khiến ta thấy tương hợp với trình thuật việc Đavit di chuyển hòm bia về Giêrusalem.

Trong cả hai trường hợp, cuộc hành trình đều tiến về Giuđêa (2Sm 6,2). cũng xảy ra những quang cảnh giống nhau: nỗi vui mừng của dân thành Giêrasalem, niềm sung sướng của bà Elizabeth và con bà, sự nhảy mừng của Đavit (2Sm 6,16) và của Gioan tẩy giả (Bible de giêrusalem dịch là tressaillement nên quá yếu, còn traduction Oecuménique de la Bible dịch là "a bondi d'allégresse" nên sát nghĩa hơn với động từ Êskirtêsen của 1,44). Sau hết tiếng kêu của dân chúng và tiếng kêu của Êlixabet: phonê (giọng nói) và kraugê (tiếng kêu) đều có ghi trong hai bản văn; người ta cũng ghi nhận: động từ anêphônêsen (1,42) diễn tả tiếng kêu của mẹ Gioan tẩy giả đã được dành riêng để chỉ những lời tung hô có tính cách phụng vụ (1Sk 16,4.5.42) và đặc biệt hơn nữa là những lời tung hô khi di chuyển hòm bia giao ước (1Sk 15,28 và 2Sk 5,13; động từ này không bao giờ được dùng trong bản LXX (70) ngoài 5 dẫn chứng nêu trên).

Hòm bia khi tiến về Giêrusalem và đó cũng là hướng đi của Đức Maria - được dựa vào nhà của Obededom (2Sm 6,10) còn Đức Maria vào nhà ông Giacaria (1,40)

Trong cả hai nhà, sự hiện diện của hòm bia và sự hiện diện của Đức Maria đều là nguồn phúc lành (2Sm 6,1112 và Lc 1,41-42).

Và đây ta thấy những sự trùng hợp rõ ràng cụ thể hơn:

Tiếng kêu Đavít (2Sm 2,9)                        Tiếng kêu của Elisabét (Lc 1,43) 

Bởi đâu có thể xảy ra                                   Bời đâu tôi được thế này

Là hòm bia Chúa                                          Là Mẹ Chúa tôi

Đến tại nhà tôi                                              Đến với tôi

Sự song đối này bao hàm sự đồng hóa mẹ Chúa với hòm bia Chúa và bắt buộc hiểu chữ "Chúa" (le Seigneur) theo nghĩa siêu việt.

Điểm tương đồng sau cùng:

2Sm 6,11                                                      Lc 1,56 

Hòm bia của Giavê                                   Đức Maria

ơ lại                                                            ở lại

Nhà Obededom                                         Với Êlisabét 

ba tháng Chừng ba tháng

Trong khi nó tiếp tục gợi lên sự đồng hóa điển hình giữa Đức Maria và Hòm bia, điểm tương đồng sau cùng này cũng xác nhận với chúng ta tính cách khách quan lịch sử của Lc. Phương thức biểu tượng mà ông ta dùng có thể làm cho chúng ta nghi rằng ông không ghi lại những sự kiện thực tế (x. Lc 1,2), nhưng chỉ có ý làm nổi bật các biểu tượng. Tiếng chừng (hôs) cho thấy ngay sự kính trọng của ông đối với những dữ kiện lịch sử.

Bằng chứng sau cùng: sự liên hợp này phú hợp với việc khai triển Lc 1-2. Hai chương này được xoay quanh việc Chúa Giêsu "đi lên đền thờ Giêrusalem (Lc 2,4.42; Lc 2,22) và 1Sm 6 cũng ghi lại hòm việc Hòm bia lên giêrusalem. Cũng như "hòm bia Chúa" dừng lại tại nhà Obededem, việc "mẹ Chúa" dừng lại tại nhà ông Giacaria diễn tả một chặng đường trong cuộc đăng trình tiến lên đền thánh. Trong hai trường hợp, việc lưu lại đều kéo dài suốt ba tháng, trong một ngôi nhà được chúc phúc. Sự liên lạc giữa cảnh thăm viếng với việc di chuyển Hòm bia Chúa (2Sm 6) xác nhận cùng một phương thức hành văn của Lc 1,2 (ông diễn tả các sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu bằng cách tham chiếu vào kinh thánh) và hai ý chính trong phần triển khai: Chúa Giêsu lên nơi của Ngài là: đền thờ Giêrusalem; Đức Maria, Đấng mang Chúa Giêsu là hình ảnh hòm bia giao ước.

2. Chỉ có một câu trong cảnh Thăm viếng (1,42) không có điểm tương đồng với 2Sm 6; câu đó xem ra trùng hợp với Gđt 13, 18-19: 

Gđt 13,18-19 Lc 1,42 

Trong nữ giới Trong nữ giới 

Có bà là diễm phúc Có bà là diễm phúc

Chúa là Thiên Chúahoa quả lòng bà

Đáng chúc tụng thay Đáng chúc tụng thay

(eulogêmennos) (eulogêmennos)

Ở đây Chúa Giêsu là Đấng đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa: đó là một dấu hiệu có giá trị nhờ qui chiếu với những dấu hiệu khác. Nhưng nhất là điểm tương hợp này đã đánh tan lập luận chối bỏ thần tính của Đức Kitô nhân danh câu này. Người ta đã bảo chữ eulogêmenos áp dụng cho loài người, còn chữ eulogetos áp dụng cho Thiên chúa. Nếu trong Lc 1,42 Chúa Giêsu chỉ được eulogemennos, là vì Ngài được coi như một thụ tạo đơn thuần chứ không như Thiên Chúa (Plummer, Lagrange, Ceuppens). Nhưng chính trong Gđt 13,19 (bản 70), Chúa Thiên Chúa (le Seigner Dieu) được eulogemenos (và ngược lại chính bà Giuđith được eulogêtê).

3. Một vài tác giả (Stanley) ghi nhận rằng kiểu nói "mẹ Chúa" phản ảnh óc chú trọng đến Đức Maria của thời các tông đồ. Thực vậy, theo nghi lễ của triều đình Cận Đông cổ thời thì tước hiệu "mẹ chúa" đầy vinh dự đó được dành cho bà Hoàng thái hậu, là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong triều sau nhà vua. Trong chế độ đa thê, không có một bà hoàng hậu nào (vì vua cũng có nhiều vợ) có thể hưởng được một địa vị ưu tiên cách chắc chắn cho đến khi bà thành công trong việc đưa con mình lên ngôi (ví dụ bà bethsabec, mẹ vua Salomon). Vì vậy, trong một nền văn minh như thế, chính bà Hoàng thái hậu chứ không phải một bà hoàng hậu nào khác, có chức quyền cao trọng nhất sau vị hoàng đế.

Có thể lấy một ví dụ về việc ảnh hưởng của một nhân vật như thế trong sách Đanien. Trong một bữa tiệc do vua Balthazar thết đãi có một bàn tay mầu nhiệm đã viết lên tường phòng tiệc (Đn 5,1tt). Nhà vua triệu mời các nhà chiêm tinh và bói toán đến nhưng họ hoàn toàn bất lực không thể giải thích được hiện tượng lạ lùng đó, nên tất cả hàng quí tộc và nhà vua đều hoang mang. Nghe tiếng kêu kinh hãi của họ, "mẹ Chúa" liền đi vào và làm chủ tình thế tuyệt vọng đó (Đn 5,10-12).

Tương tự như thế, người ta thấy ảnh hưởng lớn của Hoàng thái hậu Bethsabec trên vua Salomon trong giai thoại vua giết anh mình là Ađonias: "Vua đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà, rồi lên ngai và sai đặt một ngai khác cho mẹ mình và bà ngồi bên hữu vua (1V 2,19).

Những hình ảnh rút ra từ cuộc sống của triều đình Cận Đông cổ thời đó làm chứng về quyền hành của "mẹ chúa" và giúp chúng ta lượng giá được ý nghĩa tước hiệu vương giả ấy mà Lc áp dụng cho Đức Maria với tư cách là Mẹ Chúa Giêsu. Tước hiệu ấy như là một dấu chứng quí giá cho thấy Giáo hội trong thập niên 70-80 đã cung kính tôn sùng Đức Maria như thế nào. Tước hiệu ấy như muốn nói rằng Đức Maria là người đã cộng tác chặt chẽ nhất với Chúa Giêsu trong công cuộc cứu thế.

KẾT LUẬN 

Qua vài nét chấm phá, Lc chỉ cho ta thấy Đức Maria là hòm bia giao ước mới, là "mẹ chúa", là hình ảnh cột Abraham mới. Nhưng tất cả mọi tước hiệu đó chỉ làm nổi bật mầu nhiệm của Đấng mà bà đã cưu mang trong lòng, mầu nhiệm của Đấng phải chỉ là Messia Con Đấng Tối cao, nhưng siêu việt hơn thế nữa, cũng chính là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

   1. Đức Maria đon đả ra đi tiến lên miền núi. cuộc hành trình vất vả nhưng Người vẫn vội vàng. Cuộc đăng trình vĩ đại Luca trình bày luôn trong tác phẩm của ông. Phúc âm thứ ba và Công vụ sứ đồ bắt đầu từ đây. Lời của Thiên Chúa, Ngôi Lời, đi từ trời xuống thế, từ Nazareth đến Giêrusalem, từ Giêrusalem đến Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, luôn luôn vội vàng, bất kể những khó khăn.

  2. Đức Maria vội vã đem Chúa Giêsu đến cho người khác. Đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu, Trong cuộc sống mình, chúng ta cũng phải làm chứng Chúa Giêsu luôn sống trong chúng ta và thôi thúc chúng ta gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người chung quanh trong một thế giới u buồn và tăm tối.

  3 .Đức Maria đã lưu lại chừng ba tháng trong nhà người chị họ cho đến khi Gioan tẩy giả chào đời. Tự nhận là "tôi tớ Chúa", người cũng muốn làm tôi tớ mọi người. Không nghĩ đến phẩm chức cao trọng làm mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã phục vụ, đã chứng tỏ Mẹ thật là Mẹ của Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ. Và ta cũng phải nói rằng vì Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu nên cũng là tôi tớ mọi người. Như thế, Mẹ tỏ cho chúng ta thấy ai muốn gần Chúa Giêsu thì cũng phải sống cuộc đời như thế.

  4. Đức Maria là hòm bia giao ước mới. Người mang trong mình Đấng Thánh, mạc khải của Thiên Chúa, nguồn ân phúc, nguồn vui ơn cứu độ và trung tâm của việc phụng tự mới.

  5. Hoàn toàn giống Abraham, cha các kẻ tin. Đức Maria đã tin vào lời Chúa loan báo cho mình một việc xem ra không thể được: là một trinh nữ sẽ làm mẹ. Vì mẹ đơn sơ khiêm tốn và sống gần gũi Chúa nên mẹ biết rằng không có gì mà Thiên Chúa không làm được (1,37).

  6. Được sống gần Đức Maria là nguồn vui sâu xa đối với bà Elisabet và Gioan tẩy giả, vì họ linh cảm rằng Người mang đến ơn cứu độ. Mỗi ngày Đức Maria cũng mang đến ơn cứu độ cho chúng ta. Là mẹ của giáo hội (theo công đồng Vaticano II), Người lưu tâm đến mỗi con cái người, và tìm cách mang đến ơn cứu độ cho họ là Chúa Giêsu.

  7. Ơn gọi của Gioan tẩy giả bắt đầu ngay trước khi sinh ra, vì việc ông nhảy mừng trong lòng bà Elisabet đã là một cuộc loan báo đầu tiên về Đấng Messia. Chúng ta cũng vậy, trước khi sinh ra, Thiên Chúa đã trao cho chúng ta một sứ mệnh đặc biệt, một vai trò độc đáo mà không ai có thể thay thế được. Do đó, cần phải để Chúa Thánh thần tác động lay chuyển như bà Êlisabet và Gioan tẩy giả để ngày càng trung thành với ơn gọi riêng biệt của mình hơn. Như thế một ngày kia chúng ta sẽ nếm được niềm vui sung mãn trong cuộc sống thiên đàng với Chúa và Đức Maria là tôi tớ trung thành của Ngài.

Noel Quession - Chú Giải

 

Lc 1,39-45

Hồi ấy…

Trong Mùa Vọng này, với Tin Mừng của Luca, chúng ta đã đi ngược dòng thời gian. Vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, ông đã yêu cầu chúng ta "ngẩng đầu lên" trước Đức Kitô vinh quang đang "hiện đến" trên đám mây trời : Đức Kitô Phục sinh hôm nay cũng là Đức Kitô ngày "cánh chung". Chúa nhật II và III Mùa Vọng, Luca đã cho chúng ta quay lại 2000 năm về trước, vào thời rao giảng của Gioan Tẩy giả, chuẩn bị cho tác vụ công khai của Đức Giêsu Kitô Nadarét. Chúa nhật thứ IV này, chúng ta lời đi ngược lên 30 năm nữa, tới thời mà Đức Giêsu mới chỉ là một phôi thai trong lòng một trinh nữ, Đức Maria và chúng ta cũng ở trong thời gian.

Còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh. Những ngày này, đường phố của chúng ta nhộn nhịp tưng bừng đón lễ , những cửa hàng đua nhau quảng cáo. Trong những ngày tích cực chuẩn bị lễ hội cuối năm này, chúng ta có dành một thời gian thanh thản nội tâm, để cùng suy niệm với Đức Maria, đang chờ đới người con của mình ra đời không ?

Bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa...

Tên của Mẹ trong tiếng Hipri là Myriam, chắc chắn có nghĩa là "Công Chúa" hay "Bà lớn".

Đoạn văn nói cho ta hay, "Bà hấp tắp chỗi dậy"... có thể nói ngay sau khi Thiên Thần báo tin. Sự phản ứng nhanh nhẹn này là một dấu chỉ. Đó là Lời Chúa đã thúc đẩy Bà lên đường. "E-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai... và nay đã có thai được sáu tháng" . Maria lên đường ngay tức khắc. Chúng ta hình dung ra Bà trong dáng vẻ đầy nhiệt tình và trẻ trung. Thái độ vội vã đó là dấu chỉ đức tin của Bà. Bà phải đi bộ 150km, không có xe hơi tàu hỏa gì cả ! Bà đi về Giêrusalem. Air Kharim là một địa danh ở ngoại ô phía Tây của thành phố, cách 6km. Ngày nay đó là khu đại học y khoa Giêrusalem với bệnh viện lớn là Hadassah.

Nhưng đó không đơn thuần là một sự di chuyển địa dư. Đó cũng là một dấu chỉ. Cuộc hành trình này sẽ mở đầu cho hàng loạt những cuộc hành trình chứa đầy trong các trình thuật của Luca, một cách tượng trưng. Đường đi là nơi mạc khải và thi hành sứ vụ. Lời Chúa đã từ trời xuống Nadarét. Nay Lời Chúa đi từ Nadarét đến Giêrusalem, mở đầu cho biến cố quan trọng "lên thành Giêrusalem" để kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu. Và từ Giêrusalem Lời Chúa sẽ mở ra tới Samaria và đến tận cùng trái đất... đến cả tâm hồn tôi, nếu tôi biết lặng nghe Lời. Sự vội vã của Đức tin là một sự vội vã "thừa sai". Luca là đệ tử của Thánh Phaolô, vị tông đồ đã đi dọc các con đường của đế quốc cùng với Luca (CVTĐ).

Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elisabét. 

Bước đường của Lời Chúa trước tiên ở giai đoạn thân mật nhất, và trong khung cảnh sống tự nhiên nhất : "ở nhà"... "giữa những bà con", ở đây là giữa hai chị em bà con. Đức tin luôn được thông truyền như thế !

Ong Dacaria bị câm, vì ông đã không chịu tin (Lc 1,20 - 1,64). Đây lại là một dấu chỉ có ý nghĩa. Ong Dacaria đáng thương, sẽ không thể nói một tiếng nào với hai bà trong thời gian gặp gỡ suốt 3 tháng (Lc l,56) chỉ có các bà nói chuyện với nhau. Chính các bà là những người đầu tiên có đức tin.

Lời chào của Maria là : "Shalom" có nghĩa là bình an, trong ngôn ngữ của bà. Chào ? Dacaria và Elisabét sáu tháng trước vẫn còn là một đôi vợ chồng già buồn bã. Buồn vì không có con (Lc l,7). Bà Maria đã biết điều đó. Bà đến để chúc mừng người chị bà con và chia sẻ niềm vui với bà .

Bà Elisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên. 

"Đứa con nhảy lên trong bụng". Đó là những từ cụ thể ? Phaolô nói rằng, Luca là một y sĩ (Cl 4, 14). Chúng ta hiểu vì thế mà Luca đã lưu ý đến chi tiết này. Bất cứ phụ nữ nào đã làm mẹ, cũng đều nhớ đến giây phút khó quên đó giây phút mà hài nhi ra dấu hiệu đầu tiên về sự hiện diện của mình bằng cách cựa quậy. Có phải đó là biến cố tầm thường ? Là hình ảnh văn chương ngây ngô ? Là thứ tình cảm lỗi thời ? Không, đối với Luca, đó là một quả quyết thần học, một "dấu chỉ" nữa ? cũng như hai anh em sinh đôi Êsau và Giacóp đã nhảy múa trong bụng bà Rêbécca trước kia là vô sinh (St 25,22). Thiên Chúa đi trước con người, trong những ý định của Người : "ngay từ trong lòng mẹ", ngôn sứ Giêrêmia đã biết rằng "Chúa biết mình" (Gr l,5). Cách nói này phải chăng là hạnh phúc ?

Gioan Tẩy Giả bắt đầu vai trò của mình là ngôn sứ và nhân chứng cho Đức Giêsu Kitô ! Chính ông báo trước cho mẹ ông biến cố vĩ đại đang sắp đến. Tại sao chúng ta lại cứ muốn hợp lý hóa mầu nhiệm ? Đấy là một hiện tượng sinh học thông thường chăng ? Phải, nhưng cũng là mầu nhiệm thần linh về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn "đi trước" chúng ta.

Và bà Elisabét được tràn đầy Thánh Thần.

Đối với Luca, những trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu đã là một sự báo trước thời gian Phục sinh. Đó là Lễ Hiện Xuống cách tượng trưng, nhưng là một lễ Hiện xuống bên trong, không rực rỡ bên ngoài. Sau này Luca sẽ nói rằng, chính vùng Thần Khí Thiên Chúa đó sẽ "đổ xuống trên mọi xác thịt" (Cv 2,17-21 - Ge 3,l-5).

Chúng ta thấy rằng, Luca giúp chúng ta đọc lại biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu theo ánh sáng của sự khai sinh Giáo Hội ! Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là những sự kiện trên là 'không có thực : Luca đã nhận biết những sự kiện đó từ các giới tham dự nghi thức thanh tẩy và họ hàng của Mẹ Maria, Đấng đã "ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy trong lòng" (Lc 1,66 - 2,19-51).

Bà Elisabét kêu lớn tiếng...

Từ Hy Lạp Luca dùng ở đây (anéphonèsén) trong toàn bộ Kinh thánh chỉ thấy xuất hiện trong đoạn này mà thôi, còn trong sách Sử biên niên (1 Sb 15,21 - 16,4.5.42 2 Sb 5 ;13) từ này chỉ được dùng nhằm diễn tả những câu "tung hô phụng vụ" để chào mừng khám giao ước. Chúng ta có thể dịch là : "Bà Elisabét đã lớn tiếng hát lên bài thánh ca này".

Em được chúc phúc hơn các người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 

Đa số các Kitô hữu đọc kinh Kính Mừng không biết rằng lời kinh của họ được trích từ đoạn Tin mừng này. Những từ này đã vượt qua nhiều thế kỷ trên mỗi tổ tiên của chúng ta, chúng ta sẽ để những từ này rơi vào lãng quên chăng ? Chúng ta có thường đọc kinh Kính Mừng không ? Có lần chuỗi Mân Côi ? Những từ này cũng là một trích dẫn Kinh Thánh được dùng hai lần khác, đối với hai phụ nữ khác là Gia-en và Giuđitha (Tl 5,24 - Gđt 13,18). Hai phụ nữ đã cứu dân tộc họ vào những ngày nguy khốn nhất. Câu trích dẫn này có phải là ngẫu nhiên không ?

"Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ" : đây là một lời khen tặng của một phụ nữ đối với một phụ nữ khác : Luca lấy làm sung sướng nhấn mạnh về một trong những đề tài của ông trong Tin Mừng. Bí mật đầu tiên về Thiên Chúa không được giao phó cho người nam. Ngày nay có những phong trào đấu tranh để giải phóng phụ nữ. Có một số người cho rằng những phong trào đó là nhập nhằng. Nhìn dưới khía cạnh tích cực, những phong trào đó là một dấu chỉ thời đại, một dấu chỉ của Thiên Chúa. Mới đây một phong trào phụ nữ tự cho mình có nhiệm vụ "dám sống như phái nữ…dám nói Đức Giêsu Kitô thuộc phái nữ". Điều này đã bắt đầu trong Tin Mừng thánh Luca. Trước cả các thánh Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ tuần (30 năm trước). Bà Elisabét đã được "đầy ơn Thánh Thần". Ở đây trong bản văn Hy Lạp có dùng cùng một từ như trên. Ta có thể dịch là "'quả trong lòng bà được chúc phúc".

Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy. 

Ở đây Luca lại trích dẫn một câu Kinh Thánh (2 Sm 6,9 ) nói về Vua Đavit, đã không tin rằng hòm bia giao ước lại có thể đến nhà ông. Khám giao ước đó là nơi hiện diện của Thiên Chúa. Từ đó về sau Đức Giêsu sẽ nói (Ga 2,19) rằng Thiên Chúa quyết định không cư ngụ trong những "đồ vật" phượng tự nữa, những căn nhà bằng đá, nhưng hiện diện trong thân thể "sống động" của Đức Kitô. Bạn đang tìm một Đấng Cứu chuộc, hãy mở mắt ra mà nhìn ngắm : Thai nhi nhỏ bé và mảnh mai này, đang hiện diện trong bụng Mẹ người . . . "Có phải chính Người là Con Thiên Chúa, đầy ân sủng và chân lý không " (Ga l,14). Mầu nhiệm của Thiên Chúa còn đang giấu ẩn. Đó cũng là mầu nhiệm Thánh Thể.

Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.

Nếu dịch từng chữ theo bản văn Hy Lạp thì sẽ là : "Khi lời chào mừng của em vừa đến tai tôi, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy lên vì vui mừng (Cùng một từ "Koilia" thế mà ba dịch giả lại dịch ba cách khác nhau !).

Từ "giật mình" hay "nhảy lên", gợi cho ta nhớ tới một vũ điệu bước khiêu vũ của Vua Đavit trước khám giao ước (2 Sm 6,15-16). Từ "vui mừng" ("agalhasis") chỉ được dùng trong những Thánh Vịnh (90 lần !) và không bao giờ được dùng trong ngôn ngữ cổ điển Hy Lạp. Đó là sự vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự vui mừng của Chúa ban cho, không giống như những lạc thú trên đời. Đó là chủ đề vui mừng mà Thánh Thần ban cho, chủ đề điển hình của Thánh Lu ca "các người sẽ nhảy nhót như những chú bê bé nhỏ thoát ra khỏi chuồng" như ngôn sứ đã nói như thế (Mt 3,10). Còn chúng ta những người Kitô hữu thì sao ?

Em thật có phúc, vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.

Rõ ràng, toàn thể trình thuật này chìm đắm trong đức tin và chỉ có thể giải thích theo đức tin. Đức Maria đã được gọi là "có phúc", vì Bà có đức tin : Bà đã tin. Đức Giêsu sẽ nói lại về "mối phúc" này, mối phúc hàng đầu. Khi nghe người ta ca tụng mẹ mình, Đức Giêsu nói ngay : "Nhưng đúng hơn : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa" (Lc 11,28).

Mối phúc này có thể dành cho chúng ta. Trong đời sống, tôi có dùng thời giờ cho việc suy niệm Lời Chúa không ? Giờ đây tôi bắt đầu kinh "Magnificat anima mea Dominum" "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi".


Giáo phận Nha Trang - Chú Giải

 

"Bởi đâu tôi được mẹ Thiên-Chúa đến thăm tôi?" (Lc 1,39-45).


I.Ý CHÍNH :

Bài Tin-Mừng hôm nay thuật lại chuyện Đức Maria đến viếng thăm bà chị họ Isave, ể nói lên vai trò duy nhất của Đức Maria là thân mẫu Chúa Cứu Thế.

II.SUY NIỆM :

1."Ngày ấy Maria trỗi dậy vội vã ra đi …":

"Ngày ấy" sứ thần Thiên-Chúa kết thúc buổi truyền tin cho Maria bằng cách loan báo thêm một dấu lạ, bà chọ Isave đã mang thai được sáu tháng lúc tuổi già, Maria đã tin như vậy và ngay sau ngày truyền tin ấy, Maria đã chỗi dậy đi thăm viếng… "Ngày ấy"chỉ về biến cố truyền tin cho Maria.
"Maria chỗi dậy…"

+Việc đi thăm viếng này chắc không phải để xác nhận việc bà Isave có thai : vì Maria đã tin việc trinh thai của mình là việc lớn lao hơn nhiều nên không chút hồ nghi về việc chị họ có thai trong lúc tuổi già.

+Việc thăm viếng này không phải vì mối liên lạc gia đình bà con dòng họ đế thăm viếng nhau. Vì thời đó trường hợp một thiếu nữ đi xa ba bốn ngày đường để thăm viếng như vậy thật là hiếm.

+Nhưng việc viếng thăm là do một sự can thiệp đặc biệt của ơn trên, để cho người ta nhận thấy mối liên quan giữa hai sự việc xảy ra nơi bà Isave và trinh nữ Maria.

+ Đối với Maria, đây cũng là cơ hội đặc biệt để tỏ lòng biết ơn Thiên-Chúa vì hồng ân vô cùng lớn lao của Thiên-Chúa đã ban cho Người và cũng là cơ hội thực thi bác ái đối với bà con : giúp đỡ bà trong những tháng cuối cùng trước khi sinh. Vì thế Maria đã chỗi dậy, vội vã ra đi…

+Vội vã ra đi tiến lên niềm núi…

"Vội vã ra đi" là dấu tỏ lòng tin vững chắc và lòng trông cậy ký thác hoàn toàn của Maria vào lời của sứ thần Thiên-Chúa, đây cũng là dấu của một tâm hồn quá chan hoà vui sướng đang có Chúa ở trong lòng.

"Miền núi" : theo lời truyền tụng từ thế kỷ V, gia đình Giacaria ở trên núi trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem bảy cây số về phía Tây. Đường đi từ Nadarét đến Ain Karim phải ba bốn ngày đường.

2. "Bà vào nhà ông Giacaria chào bà Isave":

Người Do Thái có thói quen chào nhau bằng cách chúc bình an cho nhau.

3. "Và khi Isave nghe lời chào của Maria…":

Hai bà mẹ gặp nhau, nhưng thực sự hai thi nhi trong dạ của hai bà là Gioan và Giêsu gặp nhau. Liên lạc giữa đôi bên được nổi bật khi sự hiện diện của thai nhi Giêsu làm cho thai nhi gioan có phản ứng lạ lùng. Thai nhi trong dạ Isave nhảy mừng lên. Việc nhảy mừng này nói lên rằng : thời Đấng Cứu Thế đã đến, bây giờ chính là ngày của Chúa, ngày của hân hoan vui mừng ( Lc 1,14;1,47 ; 2.10 và Tv 114,1-6).

4. "Và Isave được tràn đầy Thánh Thần..":

Chính thánh thần đã mạc khải cho Isave về hồng phúc của maria. Những nhân vật chính yếu trong Kinh Thánh đều được đầy Thánh Thần như : Giêsu, Gioan, Maria, Giacaria, Isave, Simon…các nhân vật ấy đều hành động dưới sự thúc đẩy và soi sáng của Thánh Thần. Ta có thể nói hoạt động chính là Thánh Thần. Người hướng dẫn mọi người mọi hoàn cảnh và làm cho các nhân vật nói lên ý nghĩa của Người muốn diễn tả đó là dấu chỉ thời Đấng Cứu Thế đến ( Xem Cv 2,17).

5. "Bà được chúc phúc giữa những người phụ nữ…":

Được tràn đầy Thánh Thần nên Isave đã hiểu biết điều Thiên-Chúa muốn thực hiện nơi Maria : Đức Maria có phúc hơn mọi người nữ vì Thiên-Chúa thực hiện việc cứu chuộc dân người trong Đức Maria. Lời chúc phúc này là âm hưởng của lời chúc phúc cho bà Gioel(Thp 5,24) và bà Giuđich (Gđ 13,17-18) hai bà này đã giết được tướng giặc để đem lại chiến thắng cho dân Israel. Ơ đây Luca muốn ám chỉ việc maria đã chiến thắng bằng cách đạp dập đầu kẻ thù thật sự của dân Thiên-Chúa là satan để đem ơn cứu độ cho nhân loại như lời Thiên-Chúa đã ám chỉ lúc lên án ma quỷ : "Người sẽ đạp dập đầu mày" (St 3,15).

"Và con lòng bà được chúc phúc …":

Chức vụ lạ lùng của người con đang ở trong cung lòng Maria thật đáng chúc khen ca ngợi.

6."Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên-Chúa tới thăm…":

Đây không phải là lời bộc phát từ một tình cảm bồng bột, nhưng là một lời hân hoan đầy trịnh trọng vì do thánh thần soi sáng, isave nhìn nhận nơi thai nhi Giêsu mà Cha Người đã ban cho Người mọi quyền hành của Đấng Thiên Sai, vì vậy bà nhận biết Đức Maria là mẹ Thiên-Chúa.

Đồng thời lời này cũng là ân hưởng của tiếng kêu đầy ngạc nhiên của đavit trước hòm bia Thiên-Chúa (Ism 6,9). Vì thế Luca muốn gợi lên mối tương quan giữa Maria với hòm bia : Maria mang thai Chúa Giê-su trong cung lòng như là một hòm bia chứa đựng Thiên-Chúa.

        1.1. "Vì này tai tôi vừa nghe lời bà chào..":

Việc nhảy mừng của Gioan trong cung lòng Mẹ là dấu chỉ cho bà Isave nhận ra sự cao cả của thai nhi Giêsu và của Đức Maria.

       1. 2. "Phúc ho bà là kẻ đã tin…":

Isave kết lời ca ngợi bằng cách nêu lên lý do khiến Maria được chúc phúc : Maria là kẻ đã tin : tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ được thực hiện. Đức Maria đã tin vào lời loan báo rằng dù là trinh nữ, nhưng bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, Người sẽ trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế .(Lc 11,27-28).

Lời chúc phúc này cũng theo kiểu của tám mối phúc thật mà Chúa Giê-su sẽ nêu lên trước công chúng (Mt 5,1-12). Vì thế từ đây hạnh phúc thuộc về những kẽ nào như Maria , tin vào lời Thiên-Chúa hứa sẽ thực hiện.

III.ÁP DỤNG THỰC HÀNH:

A/ Ap dụng theo Tin-Mừng :


Phụng vụ đặt bài Tin-Mừng về cuộc thăm viếng của Đức Maria vào Chúa nhật cuối cùng của Mùa Vọng , để nhắc nhở chúng ta về vai trò duy nhất của Đức Maria là Mẹ Thiên-Chúa và đồng thời để gợi lại cho chúng ta, trong khi mừng lễ Chúa Giáng Sinh hãy tin tưởng và trông cậy vào mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc của Chúa Giê-su Kitô.

B/ Ap dụng thực hành:

a.Nhìn vào Đức Maria :

1.Maria vội vã tiến lên miền núi : được ơn Chúa thúc đẩy, maria đã vâng theo dù vất vả gian lao. Được ơn Chúa thúc đẩy trong tâm hồn hoặc bên ngoài do tha nhân và ngoại cảnh, chúng ta cần có lòng can đảm quên mình, chấp nhận vất vả gian lao và hy sinh mới có thể thực hiện ý Chúa.

2. Maria vội vã đến thăm Isave : đó cũng là bổn phận đặc biệt của người Kitô hữu. Trong cuộc sống hằng ngày đòi hỏi chúng ta phải tích cực gieo rắc sự vui mừng và bình an cho mọi người xung quanh nhất là trong những hoàn cảnh có nhiều u buồn và xáo trộn.

3.Maria đã đến thăm và ở lại phục vụ bà isave chùng ba tháng chứng tỏ Đức Mẹ là Mẹ thật của Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến không phải là để phục vụ, nhưng để phục vụ chúng ta càng thuộc về Chúa Kitô càng phải nên giống Người : không phải để được phục vụ mà để phục vụ, phục vụ bất cứ ai, trong bất cứ công việc gì, miễn sao cho người được phục vụ có hạnh phúc đích thật.

4.Đức Maria là nguồn vui của isave và của gioan : người Tông Đồ sống ở đâu là đem bình an ở đó và ở với ai là đem lại niềm vui, sự phấn khởi và hạnh phúc cho người đó.

5.Đức Mẹ có phúc vì đã tin vào lời Chúa hứa sẽ thực hiện. Chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi chúng ta biết đặt niềm tin phó thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên-Chúa trong mọi việc, nhất là những việc ta đang lo âu, bối rối, bất lực…

b.Nhìn vào bà Isave :

1.Isave dâng lời ngợi khen chúc mừng Đức Maria chúng ta noi gương chúc mừng Đức Maria bằng cách năng lần hạt mân côi kính mừng Maria…

2.Thai nhi nhảy mừng trong lòng là dấu chỉ cho Isave nhậnbiết hồng phúc của Maria và của Chúa Giê-su chúng ta biết nhận ra những dấu chỉ trong bản thân mình trong cuộc sống mình để nhận ra hồng ân của Thiên-Chúa mà ca ngợi chúc tụng và cảm tạ Thiên-Chúa.

3.Isave cảm tạ chúc mừng Đức Mẹ : chúng ta đừng tiếc lời chúc mừng, khen tặng và nghĩ tốt cho người khác./.



HTMV Khóa 10 - ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn