Chú Giải Tin Mừng - Chúa Nhật XXVIII Thường Niên C
Tin mừng Lc 17: 11-19: Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người tật phong, để biểu lộ đức tin cần thiết cho việc cứu rỗi đồn thời cũng bày tỏ lòng biết ơn Chúa bằng cách hoán cải đời sống để tôn vinh Thiên Chúa.
CHÚ GIẢI TIN MỪNG
CHÚA NHẬT TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN C
2V 5,14-17 ; 2Tm 2,8-13 ; Lc 17,11-19
Học viện Piô Giáo hoàng - Chú Giải
MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI (Lc 17,11-19)
1. Đây là lần thứ ba (x. 9,51; 13,22; và c.11 chương này) Lc nói đến việc CGS lên Giêrusalem. Ngài đã "đi ngang qua Samaria và Galilea". Các dòng chữ này từ lâu đã gây nhiều khó khăn trong các thủ bản và các sách Chú giải. Có 2 cách giải thích:
a/ "Đi ngang qua Samaria và Galilea" có nghĩa "đi ngang giữa Samaria và Galilea", nghĩa là đi giữa đường ranh giới ngăn cách 2 tỉnh. Có lẽ CGS đã đi theo lộ trình đó để đến thung lũng sông Giodan miền Scythopolis và từ đó xuống Giêrico (18,35) để lên Giêrusalem. Việc đi gần Samaria đó cắt nghĩa sự có mặt của một người Samaritanô trong nhóm mười người phong cùi. Xét về văn phạm, lối chú giải này xem ra vững chắc, vì chữ meson không có mạo từ và ở accusatif, thay vì ở cas ghénitif (vd 4,30). Xét về địa dư, lối chú giải này càng vững, vì nếu đi về Giêrusalem, CGS phải đi từ bắc xuống Nam; còn nói "đi ngang qua Samaria và Galilea", có lẽ phải đi từ nam ra bắc.
b/ Tuy nhiên có lẽ ở đây Lc đứng trên bình diện thần học hơn là địa dư. Do đó, vì đứng từ Giêrusalem nhìn lui đoạn đường đã đi, ông đã nhắc Samaria trước Galilea, vì thế ông viết "đi ngang qua Samaria và Galilea". Lộ trình và hành động của CGS đều bị Giêrusalem chi phối, đến độ khi nhìn lại đoạn đường đã đi, cũng phải tính từ đích điểm là Giêrusalem. Chỉ có thể hiểu lộ trình và hành động của CGS dựa trên cơ sở Giêrusalem, là nơi Ngài sắp được nâng lên. Trình thuật về chuyến đi của Ngài đã bắt đầu với biến cố có nhắc đến Samaria. Samaria là chiếc cầu nhờ đó nhờ đó lời chúa đi từ Galilea sang Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với các dân ngoại. Sau khi phục sinh, CGS sẽ uỷ thác cho môn đệ Ngài sứ mệnh: "các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất" (Cvsđ 1,8). CGS đi trước vạch đường cho giáo hội theo lộ trình của giáo hội là hậu kết lộ trình của CGS.
Lối chú giải thứ hai, xét về phương diện ngữ học, có thể được chấp nhận: chữ địa với túc từ chỉ nơi chốn ở cas accusatif, dù trong TƯ chỉ dùng một lần ở đây mà thôi, nhưng trong tiếng Hy lạp sau này, được người ta dùng rất nhiều.
Thật khó mà chọn một trong hai lối chú giải này. Tôi thiết nghĩ, nếu muốn nói "giữa ranh giới Samaria và Galiela" (BJ) hay "dọc theo biên giới Samaria và Galilea", có lẽ Lc đã viết như thế. Có lẽ bản dịch TOB tự nhiên hơn ("Ngài đi ngang qua Samaria và Galilea"). Dù lối chú giải thứ hai có vẻ hơi bị ép theo nghĩa thần học, nhưng vẫn thích ứng với chủ tâm của Lc, là người thích nói đến điạ dư trong viễn cảnh thần học. Vì thế tôi tạm thì theo lối chú giải thứ hai.
CGS và các môn đệ đi từ thành này sang thành nọ, từ làng này đến làng kia (13,22), nên đã gặp nhóm người phong cùi khi vào một trong các làng đó. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Do thái lẫn người Samaritanô. Đau khổ và bệnh tật làm cho con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Do thái và Samaritanô (x.9,53; Gio 4,4-9). Chúng tôi không biết nhóm người phong cùi, ngoài một người Samaritanô, được nhắc đến trong phúc âm hôm nay, còn có thêm người Samaritanô nào nữa chăng. Chắc là không, vì nếu có những người Samaritanô khác nữa, có lẽ họ sẽ đi theo người đồng hương, đồng đạo đến cảm ơn CGS, hơn là ở lại với các người phong cùi Do thái khác. Nhưng đây chỉ là một phỏng đoán. Việc CGS đối chiếu "người ngoại bang này" (c.18) với "chín người kia" (c.17) làm cho vững chắc lời phỏng đoán chỉ có một người Samaritanô thôi.
Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được vào đô thị có xây tường, thành chung quanh; do đó họ càng không được vào thành thánh Giêrusalem, không được đến gần các người khác: "người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc bờm xờm, râu dài tua tủa và phải la lên: ô uế, ô uế ! Bao lâu còn mắc chứng bệnh này, bấy lâu bị ô uế, và phải ở riêng biệt, xa chỗ dân chúng ở" (Lv 13,45). Vì thế những người phong cùi đó phải đứng ở đàng xa.
Ở đây CGS được gọi là thày. Cho đến nay, chỉ có các tông đồ là những người cảm kích quyền năng của Ngài, mới gọi Ngài là Thày (5,5; 9,49); các ông đã gọi Ngài là thày khi sững sờ vì vinh quang của Ngài (9,33) hay khi lo âu sợ hãi, phải xin Ngài giúp đỡ (8,24). Không những gọi: "Thày", các người phong cùi còn van xin Ngài dủ tình thương xót. Đối với họ, CGS không chỉ là một thày rabbi thông luật, mà còn là một đấng quyền năng và nhân hậu. Vương quốc TC đã tỏ hiện trong Ngài, một vương quốc luôn xót thương mọi người.
CGS dạy các người phong cùi chấp hành luật thanh tẩy: "Đây là luật dành cho người phong cùi một khi được lành bệnh: phải được dẫn đến thày tư tế" (Lv 14,2). CGS không chữa lành họ ngay tức khắc, nhưng ra lệnh cho họ, việc họ tuân lệnh giả thiết họ sắp được chữa lành. Quả thế theo lề luật, người phong cùi phải đến trình diện thày tư tế, không phải để được lành bệnh, nhưng để ông ta xác nhận đã lành bệnh. Vậy khi ra lệnh cho các người phong cùi chấp hành lề luật như thể họ đã được lành bệnh rồi, CGS đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin; và Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Như Lc vừa nhắc lại trong dụ ngôn Ladaro nghèo khó và nhà phú hộ xấu bụng, rằng người tuân nghe Môisen và các tiên tri sẽ được cứu rỗi (16,29). Người Samaritanô cũng được lành bệnh khi đi cùng con đường đó (trình thuật không nói rõ: y đã đến trình diện các tư tế Samaritanô ở núi Garizim hay trình diện tại Giêrusalem). Ơn cứu rỗi đến với người Samaritanô - và với tất cả dân ngoại - nhờ CGS, vì "ơn cứu rỗi đến từ dân Do thái" (Gio 4,22) trong người CGS.
3. Phép lành chữa lành bệnh đã xảy ra khi họ đang trên đường đi trình diện thày tư tế (c.14). Một người trong nhóm mới được chữa lành liền quay trở lại, lớn tiếng "tôn vinh TC". Chính TC hành động qua CGS. Người vừa người chữa lành ngợi khen TC trước mặt CGS, đồng thời sấp mình xuống dưới chân Ngài. TC cứu rỗi nhờ CGS. Hồng ân TC đã xuất hiện trong Ngài. Cách tạ ơn của người phong cùi đã nói lên điều đó.
Việc TC thường làm phát sinh một cảm xúc sâu xa đích thực. Những ai cảm nghiệm điều đó đều "hô lớn tiếng": ma quỉ (4,33; 8,28), dân chúng dịp tiến vào Giêrusalem (19,37), CGS khi tắt thở (23,23), Stêphanô khi sinh thì (Cvsđ 7,60). Những người thờ lạy TC đang đến gần họ trong con người CGS cũng "sấp mặt xuống đất": cha của cô bé hấp hối (8,41), người phong cùi xin chữa lành (5,12)... Quyền năng và lòng thương xót của TC tỏ hiện trong con người CGS. Quả thực Ngài là "sự thần hiển của TC". Chính vương quốc của TC đã đến trong Ngài.
Bệnh nhân được chữa lành và đến tạ ơn CGS là một người Samaritanô (c.16). Cũng như người Samaritanô nhân lành qua việc thương xót săn sóc cho người bị rơi vào tay bọn cướp trong dụ ngôn (Lc 10,30tt), người Samaritanô hôm nay cũng đang đi trên con đường của phúc âm và vương quốc TC qua việc ông tỏ lòng biết ơn. Các đức tính nhân bản đích thực, đi kèm theo lòng khiêm nhu và tâm hồn đại lượng, là đường đưa đến ơn cứu rỗi, với điều kiện là các đức tính đó được liên kết với niềm tin vào lời CGS (một khi đã nghe lời Ngài),là lời tóm kết lề luật và các tiên tri. Lời sẽ sinh hoa trái, khi gặp được một "tâm hồn tốt lành và thiện hảo" (8,15). Trong bản thân người Samaritanô, chúng ta thấy vẽ lên con đường mà phúc âm sẽ dùng để đến với dân ngoại.
CGS đợi tất cả mọi người đến tôn vinh TC, qua trung gian của Ngài. Chính nhờ Ngài mà ân sủng của TC đến với chúng ta và cũng chính nhờ Ngài mà lời chúng ta tôn vinh thấu đến TC. "không có ơn cứu rỗi nhờ một Danh hiệu nào khác" (Cvsđ 4,12). Vì "chỉ có một đấng trung gian độc nhất giữa TC và loài người" (1Tm 2,5). Nhưng chỉ có người ngoại bang đến bên CGS. Với tư cách là người ngoại quốc, người Samaritanô không thuộc về cộng đoàn con cái Israel, nên không có quyền kêu xin TC điều gì. Mọi thứ y nhận được đều là do ân huệ nhưng không của TC, do đó y đã tỏ lòng biết ơn sâu xa. Người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái, nên có quyền đòi hỏi TC thi ân. Họ thiếu thái độ căn bản để có thể đón nhận ơn cứu rỗi. Trái lại, người ngoại bang đã tỏ ra có các dự kiện đưa y đến ơn cứu rỗi: lòng biết ơn, lời ngợi khen, việc ý thức thân phân nghèo hèn của mình trước mặt TC. Đường cứu rỗi đã được chuẩn bị cho mọi người, cho cả "người ngoại bang", người tội lỗi, lương dân. yếu tố cứu rỗi, chính là niềm tin, sự quyết tâm phó thác vào lời CGS và hành động cứu rỗi của TC thực hiện nhờ CGS.
KẾT LUẬN
Các người Do thái lẫn Samatitanô đều đã tin vào CGS. Họ đã tin vào lời hứa sẽ chữa lành tiềm tàng trong mệnh lệnh CGS. Nhưng một khi được phép lạ, chỉ một người trở lại tạ ơn. Các người khác xem việc họ được chữa lành như là một quyền lợi đáng được. Chỉ có một người duy nhất trở lại, hoán cải và nhìn nhận mình là kẻ thụ ân, mắc nợ TC. Chỉ có một người cảm thấy mình còn tươi trẻ để sững sờ trước ân huệ nhận được, để tiếp tục lên đường tìm gặp đấng đã thi ân. Chỉ có một người đã biết vượt qua niềm tin vào người chữa bệnh để tin vào TC cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phong cùi là bệnh tryuền nhiễm và ghê tởm, nhất là vào thời Đức Kitô. Người mắc bệnh bị loại ra khỏi cộng đoàn, vì lý do vệ sinh dĩ nhiên, nhưng cũng vì lý do thiêng liêng nữa. Bệnh này không chỉ đau đớn và ghê sợ, nhưng đối với người Do thái còn là dấu chỉ phán xét của TC; Quả thực, thời đó người ta tưởng rằng bệnh nhân mắc bệnh đó là vì tội lỗi cá nhân của y bị TC trừng phạt, nên không được tham dự vào đời sống của cộng đoàn. Quan niệm đó được rút từ kinh thánh, ví dụ trong sách Đệ-nhị-luật: "Nếu ngươi không nghe lời Giavê, TC của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban... Giâvê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi (Đnl 28,15.35).
2. Đối với người Samatitanô cũng như người Do thái, phong cùi không phải là một thứ bệnh thông thường, mà là dấu chỉ của tội lỗi, của hình paht TC giáng xuống; nó làm bệnh nhân mất phẩm cách con cái TC và loại họ ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Khi thấy nhóm người phong cùi van xin mình, CGS chỉ phán một lời (mà giờ chúng ta đã quán triệt): "Hãy đi trình diện với các thày tư tế.... Họ sẽ chính thức cho thấy họ không còn bị phạt nữa nhưng đã được giao hòa với Chúa và nhờ đó sẽ được tái nhập cộng đoàn. Qua phép lạ này, CGS cho thấy chương trình cứu rỗi của Ngài nhằm làm con người trở thành con cái TC, cũng như thành anh em với mọi người khác trong sự hiệp thông huynh đệ. Số lượng bệnh nhân được chữa lành thật đông đảo, cũng là dấu chỉ cho thấy tất cả mọi người đều được Chúa cứu thoát, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc...
3. Người Samatitanô quay trở lại gặp CGS. Tất cả các người phong cùi đều được chữa lành, đều được Chúa ân cần săn sóc yêu thương, cũng thế mọi người đều được tình yêu liên lỉ của Chúa nâng đỡ chở che. Không ai bị loại ra khỏi phạm vi hoạt động của Đức Kitô. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Nhưng thử hỏi trong số 10 người đã có người nào biết và nhận ra Chúa ? Chính chúng ta, trong 10 lần thử hỏi đã cám ơn Chúa lần nào chưa ? Không chắc. Cám ơn không phải là dễ.
4. Người Samatitanô đã biết Chúa đang hành động trong CGS; việc đi gặp CGS sau khi lành bệnh, chứng tỏ anh đã nhận ra Chúa của anh, vì thế anh đã sấp mặt xuống đất và tạ ơn. Chính bấy giờ CGS với anh lời lạ lùng này: "Hãy chỗi dậy mà đi, lòng tin của anh đã cứu anh". Sau khi được chữa lành, anh trở lại bên CGS, cám ơn và tôn vinh TC. Cách cư xử của anh làm anh đáng được cứu thoát. CGS không nói: Ta cứu anh, nhưng nói: lòng tin của anh đã cứu anh. Anh đã nhận ra hành động của Chúa, đã vui vẻ chấp nhận và dâng lại cho Ngài. Trái lại, 9 người kia không được cứu thoát, dù đã được yêu thương như người Samatitanô. Họ đòi hỏi và đã nhận được, nhưng họ chỉ giữ lại ơn Chúa cho riêng họ, vì tư lợi của họ. Họ chỉ yêu thích chính mình; nên dù được Chúa thương mến điều đó không sinh ích gì cho họ.
5. Phần thứ hai bổ túc phần thứ nhất của đoạn phúc âm hôm nay. Nếu mỗi người có thể được Đức Kitô cứu rỗi và chỉ nhờ một mình Ngài mà thôi, thì hành động của Chúa chỉ có hiệu quả, nếu chúng ta biết cởi mở dâng lại mọi sự cho Ngài.
6. Bí tích Thánh Thể chúng ta đang tham dự hôm nay, thực hiện tất cả những gì chúng ta mới khám phá. Là hành động nhờ đó Đức Kitô đã cứu rỗi và biến đổi chúng ta. Thánh Thể cũng là phương tiện nhờ đó chúng ta ta ơn Chúa, vì mọi điều Ngài đã ban cho chúng ta, và nhờ đó chúng ta dâng lại cho Ngài mọi hồng ân Ngài đã ban. Hãy sốt sắng thông hiệp và tham dự thánh lễ đang được cử hành.
Noel Quession - Chú Giải
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi...
Một lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó : Đức Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước. Giêrusalem ! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê.
Luca nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của những người đồng thời : Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. . . "Quả thế , người Do Thái không được giao thiệp với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người dị giáo .
Quan điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao ?
Điều lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc : Chính trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng hóa" đã thực hiện những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê . . . khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại .
Đối với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những "miền Samari".
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc dữ này. . . đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất... ở đây cũng vấy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ "phong hủi", trong tâm thức của Kinh Thánh (Lê vi 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm . . . và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi..., tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó . . . để cứu chuộc, để chữa lành . . .
Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng... một điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm tinh dịch bệnh lan truyền : "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên ; "ô uế ! ô uế !" (Lêvi 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !
Họ gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng.
Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là "Thiên Chúa cứu".
Kitô hữu Phương Đông gọi "kinh cầu Chúa Giêsu" chính là lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần : Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con... Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. . . Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. . .Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh lễ : kyrie eleison... Lạy Chúa, xin thương xót !
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ : "Hãy đi trình diện với các tư tế".
Cũng theo Luật (Lê vi 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế . Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Elisê bắt ông Na-a-man, gốc Xy ri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp. . . điều này làm ông Na-a-man nổi giận !
Ngày nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được sạch.
Một lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh "giật gân" lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học : Đấy là một sự "thanh luyện" . . .lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ : "xin thương xót chúng con" . . . Đức Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện với các tư tế"…
Xuyên qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thạnh luyện tôi. Đức Giàu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hây chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng mình và máu Chúa".
Một người trong bọn, thấy mình được khởi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn.
"Vinh quang của Thiên Chúa ! Hãy "cao giọng lên để" ca ngợi vinh quang của Thiên Chúa !" "Sấp mình xuống dưới chân" ! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm vào mặt đất đó sao ? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện : Con không là gì cả con đã nhận tất cả... Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa... Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một "Ađam" . . . con chỉ là cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất "trước mặt Đức Giêsu". Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa : Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu !
"Mà tạ ơn !" "eucharistôn !", "trong khi tham dự vào Thánh Thể "…
Ngày nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám ơn" thì nói "efkaristo". Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói "tôi đến với Thánh Thể" thì một cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến tạ ơn"... tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa ! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả, "hành động tạ ơn" Đức Giêsu khi "Người ra khỏi thế gian này để về với Chúa Cha".
"Người cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói : "này là mình Ta, này là máu Ta, chịu nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài "berakha" "kinh tạ ơn". Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương thực để sống : (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta...Chúng ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa . . Chúng ta luôn miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố.... cũng không để nó tạo ra một quan hệ với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con người : thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc ? Người phong hủi tội nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu. Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người. . . để nói với Người lời cám ơn ! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt của anh ta...
Anh ta lại là người Samari...
Vậy ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó... đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói : "Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?". Rồi Người nói với anh ta : "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh".
Đối với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại... bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền chờ đợi : Đối với chín Người kia , phép lạ này không tạo ra "đức tin". Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các "tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ "cảm tạ" Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của, Người...
Giáo phận Nha Trang - Chú Giải
"không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa chỉ có người ngoại này"(Lc 17,11-19)
1. I. Ý CHÍNH:
Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người tật phong, để biểu lộ đức tin cần thiết cho việc cứu rỗi đồn thời cũng bày tỏ lòng biết ơn Chúa bằng cách hoán cải đời sống để tôn vinh Thiên Chúa.
1. II. SUY NIỆM:
1. "Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua…":
Theo địa lý thì phải nói giữa biên giới Galilê và Samari, vì Chúa Giêsu đi lên Galilê qua miền Samari tiến đến Giêrusalem. Nhưng ở đây Luca đứng từ Giêrusalem nhìn lui đoạn đường Chúa Giêsu đã đi, nên ông đã nhắc Sumari trước Galilê. Đây là lộ trình sau khi phục sinh Chúa Giêsu đã ủy thách cho các tông đồ sứ mệnh: "Các con hãy làm chứng cho ta tại Giêrusalem. Trong toàn cõi Giuđê, Sumari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Đây cho thấy việc Chúa Giêsu đi trớc vạch đường cho Giáo Hội theo, lộ trình của Giáo Hội là hậu kết lộ trình của Chúa Giêsu.
2. "Khi Người vào một làng kia…":
"Vào một làng kia": phong cùi là bệnh nan y nhơ nhớp, con bệnh phải sống cách biệt với con người lành và vì thế họ không được vào trong thành, chỉ được sống ở những làng mạc chung quanh thành. Vì thế, rước khi vào Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua làng thì gặp mười người phong cùi.
+ "Gặp mười người phong cùi": mười người cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả người Do Thái với người Samari, không còn phân biệt như trong các cộng đoàn họ đã sống. Họ sống hòa hợp với nhau mặc dầu theo truyền thống, người Do Thái vẫn có sự kỳ thị với người Samari là dân ngoại. Nhưng ở đây cho thấy chính đau khổ đã đưa con người tiến đến tình liên đới nhân loại. Khi họ bị loai ra khỏi xã hội loài người, họ đã trở thành một xã hội loài người, họ đã trở thành một xã hội đầytình người hơn.
+ "Đứng ở đàng xa": Những người cùi này giữ luật rất kĩ theo từng chi tiết. Theo luật Maisen, những người có bệnh ngoài da, sau khi các tư tế đã khám nghiệm và xác nhận là phong cùi, họ bị cho là nhơ nhớp, phải ở cách biệt, mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh (Lv 13,1-44). Vì thế họ phải tuân giữ luật, dù muốn được cho khỏi bệnh, họ cũng không giám đến gần Chúa Giêsu mà chỉ ở đàng xa mà kêu xin.
3. "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi":
Thường chỉ có các tông đồ mới được gọi Chúa Giêsu là Thầy, vì các ngài nhận biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng (Lc 5,5; 9,49; 8,24). Ơ đây các người cùi cũng gọi Chúa Giêsu là Thầy, vì đối với họ Chúa Giêsu không chỉ là Thầy thông luật mà còn là Đấng quyền năng và nhân hậu, nên họ đã van xin Người dủ tình thương xót. Gọi Chúa Giêsu là Thầy là tỏ bày niềm tin vào Chúa Giêsu quyền năng.
4. "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế":
Chúa Giêsu dạy các người cùi phải biết chấp hành luật thanh tẩy (Lv 14,2). Quả vậy, theo luật thì những người cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ơ đây ra lệnh cho người bệnh đi trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ vì theo luật khi khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy Tư Tế.
5. "Trong lúc họ đi đường họ được lành sạch":
Để được khỏi bệnh, Chúa Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã bày tỏ lòng tin vào Chúa Giêsu khi họ xưng Chúa Giêsu là Thầy và xin Người thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy bằng hành động vâng lời Chúa đi trình diện ngay với các tư tế mà không cần chờ đợi một hành động gì khác để chữa bệnh. Vì thế, hiệu quả của lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo luật.
6. "Một người trong bọn họ thấy mình được sạch":
+ Thấy mình được sạch, một người trở lại cám ơn và ca tụng Thiên Chúa. Cử chỉ ngợi khren Thiên Chúa trước mặt Chúa Giêsu và cử chỉ sấp mình xuống dưới chân Người, đã nói lên niềm tin chính Thiên Chúa hành động qua Chúa Giêsu và như vậy, Thiên Chúa cứu trổi nhờ Chúa Giêsu Kitô.
+ Quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa tỏ bày trong con người Chúa Giêsu . vì thế,những ai cảm nghiệm được điều đó có cảm xúc mạnh khiến phải "Hô lớn tiếng" như những trường hợp: ma quỉ (Lc4.33 ;8.28), dân chúng tiến vào Giêrulem (Lc 19.37), Chúa Giêsu khi tắt thở (Lc 23.23), Stêphanô khi sinh thì (Cv 7.60).
7. "Mà Người ấy lại là xứ samari":
Bệnh nhân được chữa lành và đến tạ ơn Chúa Giêsu là một Người samari. Trường hợp này giống như trường hợp Người samaritanô nhân lành (Lc 10.30)…
Người samari thuộc dân ngoại không thuộc cộng đoàn Do Thái nên họ khônh có quyền kêu xin Thiên Chúa một điều gì. Mọi thứ họ nhận đượcđều là ân huệ nhưng không của Thiên Chúa , do đó khi được ơn khỏi bệnh, họ đã tỏ bày lòng biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu .
8. "chớ thì không phải cả mười Người được lành sao":
Chúa Giêsu đợi tất cả mọi Người đến tôn vinh Thiên Chúa qua trung gian của Người . Nhưng những Người Do Thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là Người Do Thái nên có quyền đòi hỏi chúa thi ân. Ơ đây chúa có ý ám chỉ đến Người Do Thái, cách riêng đến các biệt phái, luật sĩ là những Người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) Dân riêng của Chúa, mà tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của chúa nơi Chúa Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có Người dân ngoại là Người samari đã tỏ bày lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa .
9. "Ngươi hãy đứng dậy mà về":
Ơ đây muốn nói lên chân lý: Đường cứu rổi đã chuẩn bị cho mọi Người, cho Người dân ngoại bang, cho Người tội lổi, cho lương dân, chứ không phải chỉ dành cho dân Do Thái, nhưng chỉ có những ai có niềm tin và sự quyết tâm phó thác váo lới Chúa Giêsu , và hoạt động cứu rổi của Thiên Chúa thực hiện nhờ Chúa Giêsu , thì mới được ơn cứu rổi đích thực , "Vì lòng tin của ngươi đã cứu được Ngươi".
III. ÁP DỤNG:
A. áp dụng theo tin mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo hội nhắn nhủ chúng ta muốn đón nhận ơn cứu trổi của Chúa ban cho, cần phải quyết tâm tín thác vào lời nói và hoạt động của Chúa Giêsu khô bằng cách vâng theo lời Chúa dạy và sống theo đường lối của Chúa
B. Áp dụng thực hành:
1. 1. Nhìn vào Chúa Giêsu
a) Xem việc chúa làm:
+ Chúa giêng cứu những Người cùi, chứng tỏ chúa phục vụ và không phân biệt ranh giới. Noi gương Chúa chúng ta phục vụ tha nhân mà không cần phân biệt Người ấy là ai, miễn sao ta giúp ích được cho họ.
+ Chúa Giêsu tiếp xúc với Người cùi, Người xé rào lề luật. Noi gương Chúa, lòng bác ái của chúng ta đôi khi cũng vượt khỏi những lề luật tỉ mỉ, khắt khe khép kín…
b) Nghe lời Chúa nói:
+ "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư thế": Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải vâng lời chúa bằng cách tuân giữ các luật lệ: luật Chúa, luật Giáo hội, luật Quốc gia, luật cộng đồng, luật riêng…vì sống theo luật là sống theo ý Chúa .
+ "Còn chín Người kia đâu?":Chúa đòi hỏi chúng ta muốn xin điều gì thì phải tin và phó thác vào quyền năng, vào tình thương của Chúa.
2. Nhìn vào những Người phong cùi:
Để được cứu chữa thì phải tin và sống theo điều mình tin. Tin bằng sự cầu nguyện, và sống niềm tin bằng cách tuân theo Lời Chúa./.
HTMV Khóa 10 - Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn