Clock-Time

Huấn thị Redemptionis Sacramentum - Bí tích Cứu Chuộc Về Vài Điều Phải Giữ Và Phải Tránh Liên Quan Đến Bí tích Thánh Thể | Phụng vụ | Văn Kiện

Huấn Thị này được soạn thảo bởi Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích, theo sự uỷ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, và với sự cộng tác của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Huấn Thị này được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II phê chuẩn ngày 19 tháng 3 năm 2004, vào ngày lễ trọng kính thánh Giuse. Đức Giáo Hoàng đã truyền Huấn Thị này được công bố và tuân giữ bởi mọi người liên hệ.

Văn Kiện
Huấn thị Redemptionis Sacramentum
Bí tích Cứu Chuộc Về Vài Điều Phải Giữ Và Phải Tránh Liên Quan Đến Bí tích Thánh Thể

Phụng vụ

Huấn thị Redemptionis Sacramentum - Bí tích Cứu Chuộc Về Vài Điều Phải Giữ Và Phải Tránh Liên Quan Đến Bí tích Thánh Thể | Phụng vụ | Văn Kiện | hiệp thông Loan bao Tin mừng,

Mục lục

NHẬP ĐỀ

CHƯƠNG I: VIỆC ĐIỀU HÀNH PHỤNG VỤ

1.GIÁM MỤC GIÁO PHẬN, THƯỢNG TẾ CỦA ĐÀN CHIÊN MÌNH

2. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

3. CÁC LINH MỤC

4. CÁC PHÓ TẾ

CHƯƠNG II: SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN VÀO VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ

1. THAM DỰ TÍCH CỰC VÀ Ý THỨC

2. CÁC PHẬN VỤ CỦA GIÁO DÂN TRONG BUỔI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

CHƯƠNG III: CỬ HÀNH ĐÚNG THÁNH LỄ

1. CHẤT LIỆU BÍ TÍCH THÁNH THỂ

2. KINH NGUYỆN THÁNH THỂ

3. NHỮNG PHẦN KHÁC CỦA THÁNH LỄ

4. VIỆC KẾT HỢP NHỮNG NGHI THỨC KHÁC VỚI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

CHƯƠNG IV: RƯỚC LỄ

1. NHỮNG TRẠNG THÁI PHẢI CÓ ĐỂ RƯỚC LỄ

2. VIỆC CHO RƯỚC LỄ

3. VIỆC RƯỚC LỄ CỦA LINH MỤC

4. RƯỚC LỄ DƯỚI HAI HÌNH

CHƯƠNG V: VÀI NHẬN XÉT KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH THỂ

1. NƠI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

2. VÀI QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH LỄ

3. CÁC BÌNH THÁNH

4. Y PHỤC PHỤNG VỤ

CHƯƠNG VI: LƯU GIỮ THÁNH THỂ VÀ VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỄ

1. LƯU GIỮ THÁNH THỂ

2. VÀI HÌNH THỨC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỂ

3. KIỆU THÁNH THỂ VÀ HỘI NGHỊ THÁNH THỂ

CHƯƠNG VII: CÁC PHẬN VỤ NGOẠI THƯỜNG CỦA GIÁO DÂN

1. THỪA TÁC VIÊN NGOẠI THƯỜNG CHO RƯỚC LỄ

2. GIẢNG

3. NHỮNG CỬ HÀNH ĐẶC BIỆT KHI VẮNG LINH MỤC

4. CÁC GIÁO SĨ HỒI TỤC

CHƯƠNG VIII: CÁC PHƯƠNG DƯỢC

1. CÁC GRAVIORA DELICTA

2. CÁC VỤ NGHIÊM TRỌNG

3. NHỮNG LẠM DỤNG KHÁC

4. GIÁM MỤC GIÁO PHẬN

5. TOÀ THÁNH

6. NHỮNG TỐ GIÁC LIÊN QUAN ĐẾN CÁC LẠM DỤNG PHỤNG VỤ

KẾT LUẬN

NHẬP ĐỀ

1. Trong Bí tích Thánh Thể, Mẹ Hội Thánh tin mạnh mẽ và đón nhận vui vẻ, cử hành và tôn thờ BÍ TÍCH CỨU CHUỘC 1, khi loan báo cái chết của Đức Giêsu-Kitô và công bố cuộc phục sinh của Người, cho đến khi Người đến trong vinh quang 2, với tính cách là Chúa và Thầy bất khả chiến bại, Tư Tế vĩnh cửu và Vua hoàn vũ, để trao vào tay Chúa Cha quyền năng vương quốc sự thật và sự sống 3.

2. Bí tích Thánh Thể, - trong đó chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, tức là chính Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta 4 -, là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn vẹn đời sống Kitô giáo 5; ảnh hưởng của Bí tích Thánh Thể mang tính quyết định ngay từ thuở ban đầu của Hội Thánh 6. Giáo lý của Hội Thánh về đề tài Bí tích Thánh Thể đã được trình bày rất chu đáo và đầy uy quyền, theo dòng thời gian, trong các văn kiện của các Công Đồng và của các Giáo Hoàng. Hơn nữa, mới gần đây, trong Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, do hoàn cảnh hiện nay của Hội Thánh thúc bách, đã trình bày lần nữa vài điểm rất quan trọng của đề tài này 7.

Để cho thấy cả hôm nay Hội Thánh vẫn quan tâm, như trách nhiệm Hội Thánh phải làm, trên mầu nhiệm cực trọng này, đặc biệt trong việc cử hành Phụng Vụ thánh, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích 8, cùng hợp tác với Bộ Giáo Lý Đức Tin, biên soạn Huấn Thị này, trong đó sẽ bàn đến vài vấn nạn liên hệ đến kỷ luật của Bí tích Thánh Thể. Do đó, các điểm chứa đựng trong Huấn Thị này phải được đọc tiếp nối với Thông điệp Ecclesia de Eucharistia nói trên.

Tuy nhiên, mục tiêu của Huấn Thị không phải là trình bày toàn bộ các quy tắc liên hệ đến Bí tích Thánh Thể cho bằng nhắc lại vài yếu tố chứa đựng trong các quy tắc phụng vụ đã được trình bày và thiết lập trước rồi, mà vẫn còn có giá trị, để củng cố ý nghĩa sâu xa của các quy tắc phụng vụ 9, và đồng thời nêu ra các quy tắc khác, làm sáng tỏ và bổ túc những quy tắc trước, bằng cách giải thích không những cho các Giám Mục, mà còn cho các linh mục, phó tế và mọi giáo dân, hầu mỗi người đem ra thi hành theo phận vụ của mình và theo các khả năng của mình.

3. Các quy tắc chứa đựng trong Huấn Thị này đều nói về các vấn đề thuộc phụng vụ của Nghi Lễ Rôma và những Nghi Lễ Khác của Giáo Hội latinh được luật thừa nhận, với những thay đổi thích hợp.

4. “Không còn nghi ngờ là cuộc canh tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II đã phát sinh lợi ích lớn lao là làm cho tín hữu tham dự ý thức hơn, tích cực hơn và hiệu quả hơn vào Hy Tế bàn thờ” 10. Tuy nhiên, “không thiếu bóng tối” 11. Thật vậy, người ta không thể bỏ qua các lạm dụng, có khi rất nghiêm trọng, nghịch lại bản chất của Phụng Vụ và các bí tích, cũng như nghịch lại truyền thống và quyền bính của Hội Thánh, khiến cho vào thời đại chúng ta các buổi cử hành phụng vụ bị tổn hại nhiều lần ở nơi này nơi kia trong Hội Thánh. Tại vài nơi, sự kiện phạm các lạm dụng trong lãnh vực phụng vụ đã trở thành một thói quen thường xuyên; rõ ràng là không thể chấp nhận những thái độ như thế, chúng phải chấm dứt.

5. Việc tuân giữ các quy tắc, do quyền bính Hội Thánh ban hành, đòi phải được thể hiện trong tinh thần và lời nói, trong thái độ bên ngoài và tâm trạng bên trong. Hẳn nhiên một sự tuân giữ thuần tuý bên ngoài các quy tắc đi ngược lại với chính bản chất của Phụng Vụ thánh, được Chúa Kitô muốn cử hành nhằm qui tụ Hội Thánh Người, để cho Hội Thánh cùng với Người làm thành một thân thể và một tinh thần mà thôi” 12. Vì thế, thái độ bên ngoài phải được soi sáng bởi đức tin và đức ái, làm chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô và với nhau và khơi lên trong chúng ta tình yêu đối với người nghèo và người sầu khổ. Những lời và những nghi thức của Phụng Vụ cũng là cách biểu lộ trung thành, đã được chín mùi theo năm tháng, những tình cảm của Chúa Kitô và chúng dạy chúng ta có cùng những tình cảm như Người 13. Khi làm cho tâm trí chúng ta phù hợp với những lời ấy, chúng ta nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Vậy, tất cả những gì được nói trong Huấn Thị này đều có mục đích khơi lên một sự phù hợp như thế giữa tình cảm của chúng ta với tình cảm của Chúa Kitô, được diễn tả trong các lời và nghi thức của Phụng Vụ.

6. Thật vậy, những lạm dụng như thế “góp phần làm lu mờ đức tin ngay chính và giáo lý công giáo liên quan đến Bí Tích tuyệt diệu này” 14. Chúng cũng ngăn cản “tín hữu sống lại một cách nào đó kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau: “mắt họ mở ra và họ nhận biết Người” 15. Đứng trước quyền năng vĩnh cửu của Thiên Chúa và thiên tính của Ngài 16, cũng như trước sự toả rạng của lòng nhân từ của Ngài, được biểu lộ một cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, các tín hữu phải có được và bày tỏ cảm thức về sự uy nghi của Thiên Chúa, được lộ rõ sáng chói trong cuộc thương khó cứu chuộc của Con Một Ngài 17.

7. Không hiếm trường hợp các lạm dụng bắt nguồn từ một quan niệm sai lầm về tự do. Tuy nhiên, Thiên Chúa không ban cho chúng ta trong Đức Kitô một thứ tự do ảo tưởng muốn làm gì thì làm, nhưng thứ tự do cho phép chúng ta làm điều chính đáng 18. Thật ra, nguyên tắc này không chỉ có giá trị đối với những lời dạy đến trực tiếp từ Thiên Chúa, mà còn đối với những luật do Hội Thánh công bố, dĩ nhiên phải cứu xét tính chất của từng quy tắc. Vậy, mọi người có bổn phận sống phù hợp với những quy định do quyền bính giáo hội hợp pháp thiết lập.

8. Sau nữa, người ta phải buồn phiền ghi nhận sự hiện hữu của “những sáng kiến đại kết, dù được khơi lên bởi ý hướng ngay lành, nhưng đã đi đến những thực hành về Bí tích Thánh Thể ngược với kỷ luật trong đó Hội Thánh diễn tả đức tin mình”. Tuy nhiên, ân huệ Thánh Thể “quá lớn nên không thể chịu đựng những hàm hồ và giản lược”. Vậy nên sửa chữa và xác định một cách rõ rệt hơn một vài yếu tố, để, ngay trong lãnh vực này, “Bí tích Thánh Thể tiếp tục toả chiếu trong sự vĩ đại của mầu nhiệm của mình” 19.

9. Sau cùng, các lạm dụng rất hay bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết, bởi vì người ta thường loại bỏ những điều người ta không nhận ra ý nghĩa sâu xa, và người ta không biết tính cổ xưa. Thế mà, chính từ Thánh Kinh, “dưới sự linh hứng và sự thúc đẩy của Thánh Kinh, mà các lời nguyện, các thánh thi phụng vụ được khai sinh, và chính từ Thánh Kinh mà các hành động và các biểu tượng có được ý nghĩa” 20. Hơn nữa, “Đức Kitô hoặc Hội Thánh đã chọn những dấu chỉ hữu hình dùng trong Phụng Vụ để chỉ những thực tại thần linh vô hình” 22. Sau hết, trong truyền thống của mỗi Nghi Lễ ở cả Đông phương lẫn Tây phương, những cấu trúc và những hình thức của các cử hành thánh hợp với toàn thể Hội Thánh, cũng như đối với những cách thực hành mà mọi nơi nhận được từ truyền thống tông đồ không gián đoạn; cho nên những cách thực hành này phải được Hội Thánh truyền lại cách trung thành và cẩn thận cho các thế hệ tương lai. Tất cả những yếu tố này phải được bảo tồn cách khôn ngoan và được bảo vệ bởi các quy tắc phụng vụ.

10. Chính Hội Thánh không có quyền gì trên những điều Chúa Kitô đã thiết lập, chúng tạo nên phần bất biến của Phụng Vụ 23. Thực thế, nếu người ta cắt đứt dây liên kết giữa các bí tích và chính Chúa Kitô là Đấng đã thiết lập chúng, và nếu người ta không nối kết chúng với các biến cố sáng lập Hội Thánh 24, thì không mang lại gì tốt cho tín hữu, trái lại còn làm cho họ chịu nhiều thiệt thòi. Thật vậy, Phụng Vụ thánh liên kết chặt chẽ với các nguyên tắc tín lý 25; do đó, việc sử dụng các bản văn và các nghi thức không được phê chuẩn, gây nên hậu quả là dây liên kết cần thiết giữa lex orandi lex credendi bị suy yếu hoặc không còn nữa 26.

11. Mầu nhiệm Thánh Thể quá lớn lao, “nên không ai được tự cho phép hành xử theo ý riêng, mà không tôn trọng đặc tính linh thiêng cũng như chiều kích phổ quát của Mầu nhiệm này” 27. Ngược lại, ai hành động như thế, khi thích theo những xu hướng riêng tư, dù người ấy là linh mục, thì làm tổn hại nghiêm trọng đến tính thống nhất cốt yếu của Nghi Lễ rôma, là điều cần được canh giữ không ngừng 28. Những hành vi thuộc loại này tuyệt đối không tạo nên câu trả lời thích đáng cho cơn đói khát Thiên Chúa hằng sống, mà dân chúng hiện thời đang cảm nghiệm; đàng khác, chúng không có điểm gì chung với lòng hăng hái mục vụ chân thực hoặc trào lưu canh tân phụng vụ đích thực, nhưng đúng hơn chúng mang lại hậu quả là làm các tín hữu mất đi gia sản và di sản của họ. Thực vậy, những hành vi tuỳ tiện ấy không giúp ích cho việc canh tân đích thực 29, nhưng làm hại nghiêm trọng đến quyền chính đáng của tín hữu là hưởng được một hành động phụng vụ diễn tả đời sống của Hội Thánh theo đúng truyền thống và kỷ luật của Hội Thánh. Hơn nữa, những hành vi tuỳ tiện ấy du nhập những yếu tố làm biến chất và gây lộn xộn trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, trong khi Bí tích Thánh Thể, do bản chất và theo một cách tuyệt hảo, có mục đích cho thấy và thực hiện cách diệu kỳ sự thông hiệp vào đời sống của Thiên Chúa và sự thống nhất của dân Chúa 30. Những hành vi ấy gây nên sự bấp bênh về mặt giáo lý, nổi nghi ngờ và gương xấu trong dân Chúa và cũng không tránh khỏi tạo ra những phản ứng quyết liệt, làm bối rối và đau lòng sâu sắc nhiều tín hữu, trong khi vào thời đại chúng ta, đời sống Kitô giáo thường đặc biệt khó khăn vì bầu khí “tục hoá” 31.

12. Ngược lại, mọi tín hữu của Chúa Kitô có quyền hưởng một phụng vụ đích thực - và điều này đúng đặc biệt cho việc cử hành Thánh Lễ - phù hợp với điều Hội Thánh đã muốn và thiết lập, nghĩa là như nó được quy định trong các sách phụng vụ và trong các luật và quy tắc khác. Đàng khác dân công giáo có quyền có Hy Tế Thánh Lễ được cử hành mà không bị biến chất gì, phù hợp toàn vẹn với giáo lý của Huấn Quyền Hội Thánh. Sau cùng, cộng đoàn công giáo có quyền có Bí tích Thánh Thể cực trọng được cử hành sao cho bí tích này tỏ ra thực sự là bí tích hiệp nhất, bằng cách loại bỏ hoàn toàn mọi thứ khiếm khuyết và thái độ, có thể gây nên chia rẽ và lập ra những nhóm ly khai trong Hội Thánh 32.

13. Toàn bộ những quy tắc và những nhắc nhở được trình bày trong Huấn Thị này nằm trong bổn phận của Hội Thánh, vì Hội Thánh có trách nhiệm canh giữ sao cho việc cử hành mầu nhiệm lớn lao này được phù hợp và xứng đáng. Chương cuối của Huấn Thị này trình bày những mức độ khác nhau, theo đó các quy tắc riêng lẻ được nối kết với quy luật tối thượng của toàn bộ Luật của Hội Thánh, đó là chăm sóc phần rỗi các linh hồn 33

CHƯƠNG I: VIỆC ĐIỀU HÀNH PHỤNG VỤ

14. “Việc điều hành Phụng Vụ thánh chỉ thuộc về Giáo quyền, tức Tông Toà và Giám Mục trong quyền hạn luật định” 34.

15. Giáo hoàng, “Đấng Đại Diện Chúa Kitô và Chủ Chăn của toàn thể Hội Thánh trên trái đất, vì nhiệm vụ của ngài, có quyền thường xuyên, tối thượng, toàn vẹn, trực tiếp và phổ quát mà ngài có thể luôn thực thi cách tự do 35, đặc biệt khi giao tiếp với các chủ chăn và tín hữu.

16. Toà Thánh có quyền tổ chức Phụng Vụ thánh của Hội Thánh toàn cầu, biên soạn các sách phụng vụ, nhìn nhận các bản dịch sang tiếng địa phương và chăm lo cho các quy luật phụng vụ được trung thành tuân giữ khắp nơi, đặc biệt những luật quy định việc cử hành Hy Tế Thánh Lễ 36.

17. Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích lo tất cả những gì thuộc Tông Toà liên quan đến việc quy định và cổ võ Phụng Vụ thánh, trước tiên là các bí tích. Bộ để ý đến kỷ luật các bí tích, đặc biệt là tính thành sự và tính hợp pháp của việc cử hành các bí tích. Cuối cùng, “Bộ chú tâm theo dõi để các quy định phụng vụ được tuân giữ đúng đắn, ngăn ngừa các lạm dụng trong lãnh vực này và chấm dứt các lạm dụng khi khám phá ra chúng” 37. Trong lãnh vực này, theo truyền thống của Hội Thánh, phải chú ý đặc biệt đến việc cử hành Thánh Lễ, và việc thờ phượng dành cho Bí tích Thánh Thể, kể cả ngoài Thánh Lễ.

18. Các tín hữu có quyền đòi quyền bính Hội Thánh điều hành Phụng Vụ thánh hoàn toàn và cách hiệu quả, để cho Phụng Vụ thánh không bao giờ thành “sở hữu riêng tư của ai, dù là vị chủ tế hoặc là cộng đoàn nơi đó các Mầu Nhiệm được cử hành 38.

1.GIÁM MỤC GIÁO PHẬN, THƯỢNG TẾ CỦA ĐÀN CHIÊN MÌNH

19. Giám Mục giáo phận là người phân phát chính các Mầu Nhiệm Thiên Chúa trong Hội Thánh địa phương được trao phó cho ngài, nên ngài là người tổ chức, cổ võ và bảo vệ toàn bộ đời sống phụng vụ 39. Thật vậy, “Giám Mục, vì đã lãnh nhận cách sung mãn bí tích Truyền Chức, nên có trách nhiệm phân phát ân sủng của chức tư tế tối cao” 40, cách đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể mà chính ngài dâng hoặc ngài đảm bảo việc dâng 41, và từ đó Hội Thánh tiếp nhận liên tục sự sống và tăng trưởng” 42.

20. Hội Thánh biểu lộ mình cách rõ ràng nhất mỗi khi các Thánh Lễ trọng thể được cử hành, nhất là tại nhà thờ chánh toà, “với sự tham dự đầy đủ và tích cực của toàn thể dân Chúa, […] trong cùng một kinh nguyện, gần bàn thờ duy nhất nơi giám mục chủ sự”, có linh mục đoàn, các phó tế và các thừa tác viên khác bao quanh 43. Hơn nữa, “mọi cử hành hợp pháp Bí tích Thánh Thể đều do Giám mục điều khiển, vì ngài được trao phó nhiệm vụ dâng lên Tôn Nhan uy nghi Chúa việc phụng thờ Kitô giáo và xếp đặt việc phụng thờ này theo các lệnh truyền của Chúa và theo các luật lệ của Hội Thánh, mà ngài đưa ra cho giáo phận mình những quy định cụ thể, theo sự phán đoán riêng của ngài” 44.

21. Thật vậy, “trong vấn đề phụng vụ, Giám Mục giáo phận có bổn phận đưa ra cho Hội Thánh được trao phó cho mình và trong giới hạn của thẩm quyền mình những quy tắc mà mọi người buộc phải tuân giữ” 45. Tuy nhiên, Giám Mục phải luôn luôn chú ý đừng gây thiệt hại cho tự do thích nghi một cách đúng đắn việc cử hành theo thánh đường, hoặc theo nhóm tín hữu, hoặc theo các hoàn cảnh mục vụ, như các quy luật phụng vụ đã dự liệu, hầu cho toàn bộ nghi thức thánh được thích nghi thực sự với tâm thức người dự 46.

22. Giám Mục điều khiển Hội Thánh địa phương được trao phó cho mình 47, nên ngài có bổn phận quy định, điều khiển, khuyến khích, đôi khi quở trách 48, để, thể theo phận vụ thánh mà ngài đã lãnh nhận ngày chịu chức giám mục 49, ngài xây dựng đoàn chiên trong chân lý và trong thánh thiện 50. Ngài có bổn phận giải thích ý nghĩa đích thực của các nghi thức và các bản văn phụng vụ, và ngài có phận vụ lấy tinh thần Phụng Vụ thánh mà nuôi dưỡng các linh mục, phó tế và giáo dân 51, để tất cả họ cử hành Bí tích Thánh Thể cách tích cực và hiệu quả 52. Sau cùng, Giám Mục cũng lo sao cho toàn bộ thân thể Hội Thánh có thể đồng tâm tiến triển trong sự duy nhất của đức ái trên bình diện giáo phận, quốc gia và toàn cầu 53.

23. Các tín hữu “phải gắn bó với Giám Mục của mình như Hội Thánh gắn bó với Chúa Giêsu Kitô và như Chúa Giêsu Kitô gắn bó với Cha Người, để mọi sự quy tụ trong hiệp nhất và nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa” 54. Mọi người, kể cả các phần tử dòng tu và Hội tông đồ, cũng như các hiệp hội hoặc phong trào thuộc bất cứ loại nào, phải tùng phục quyền bính của Giám Mục giáo phận trong tất cả những gì liên quan đến Phụng Vụ 55, ngoại trừ những quyền lợi họ có được cách hợp pháp. Vậy, Giám Mục giáo phận có quyền và bổn phận giám sát cần mẫn về phụng vụ và với tư cách đó viếng thăm các thánh đường và nguyện đường, nằm trên lãnh thổ mình, kể cả những thánh đường và nguyện đường được thành lập hoặc được điều khiển bởi các phần tử của các hội nói trên, nếu các tín hữu thường xuyên đến đó 56.

24. Về phần mình, dân Kitô có quyền đòi hỏi Giám Mục giáo phận quan tâm đừng để các lạm dụng len lỏi vào trong kỷ luật của Hội Thánh, nhất là trong những gì liên quan đến thừa tác vụ Lời, việc cử hành các bí tích và phụ tích, việc thờ phượng Thiên Chúa và các thánh 57.

25. Các uỷ ban, các hội đồng do Giám Mục đặt ra với mục đích “cổ xuý hoạt động phụng vụ, cũng như âm nhạc và nghệ thuật thánh trong giáo phận”, phải hành động phù hợp với tư tưởng và các quy luật của Giám Mục, và họ phải dựa vào quyền bính và sự phê chuẩn của ngài mà thi hành cách thích hợp nhiệm vụ của họ 58, hầu quyền bính hữu hiệu của Giám Mục trong giáo phận mình được đảm bảo. Về tất cả những nhóm, các hội, và tất cả những ai đưa ra những sáng kiến trong lãnh vực phụng vụ, thì các Giám Mục phải nhanh chóng tìm hiểu xem các hoạt động của họ cho đến bây giờ có mang lại kết quả tốt không 59; các ngài cần chú tâm nhận định điều gì nên sửa hoặc điều gì nên cải tiến cần đưa vào trong cấu trúc và hoạt động của chúng60, để chúng có được sức mạnh mới. Phải luôn luôn nhớ rằng các chuyên viên cần phải được chọn trong số những người chứng tỏ có đức tin công giáo vững mạnh và được đào tạo kỹ trong những lãnh vực thần học và văn hoá.

2. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

26. Điều nói đến trên đây cũng có giá trị cho các uỷ ban phụng vụ, mà theo yêu cầu của Công đồng 61, được Hội Đồng Giám Mục thành lập. Các thành phần của các uỷ ban này phải là các Giám mục, mà cần phải phân biệt rõ với các chuyên viên trợ lực. Trong trường hợp số các thành viên của Hội Đồng Giám Mục không đủ, và do đó gây khó khăn cho việc tuyển chọn hoặc thiết lập uỷ ban phụng vụ, thì phải bổ nhiệm một hội đồng hoặc một nhóm chuyên viên được đặt luôn luôn dưới quyền chủ tịch của một Giám mục; dù vẫn tận sức chu toàn nhiệm vụ, hội đồng này hoặc nhóm này nên luôn luôn tránh gọi là “uỷ ban phụng vụ”.

27. Từ năm 1970 62, Tông Toà đã cho biết mọi thử nghiệm phụng vụ liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ phải đình chỉ, và Tông Toà đã lặp lại cấm chỉ này vào năm 1988 63. Do đó, mỗi Giám mục, cũng như Hội Đồng Giám Mục, không còn có năng quyền cho phép các thử nghiệm liên quan đến bản văn phụng vụ và những chuyện khác được quy định trong các sách phụng vụ. Để có thể làm những thử nghiệm thuộc loại này trong tương lai, cần thiết phải có phép của Bộ Phụng Tự thánh và Kỷ Luật Bí Tích. Bộ này sẽ chấp thuận bằng văn bản, thể theo đơn xin của Hội Đồng Giám Mục. Một ban phép như thế chỉ cho vì một lý do nghiêm trọng. Trong vấn đề liên quan đến các dự án hội nhập văn hoá trong lãnh vực phụng vụ, phải tuân giữ nghiêm và toàn vẹn các quy luật được thiết lập về vấn đề ấy 64.

28. Mọi quy luật liên quan đến phụng vụ, được một Hội Đồng Giám Mục ấn định, theo các quy tắc của luật, cho lãnh thổ của mình, phải được trình để có recognitio của Bộ Phụng Tự thánh và Kỷ Luật Bí Tích, mà nếu không có thì không mang tính chất bó buộc nào 65.

3. CÁC LINH MỤC

29. Các linh mục, cộng tác viên trung thực, khôn ngoan và cần thiết của hàng giám mục 66, được mời gọi phục vụ dân Chúa, và cùng với Giám mục mình làm nên một presbyterium 67 với những phận vụ khác nhau. “Ở mỗi nơi có một cộng đoàn tín hữu, các linh mục làm cho Giám mục hiện diện một cách nào đó, mà các ngài liên kết với con tim tín cẩn và quảng đại. Các ngài đảm nhận nhiệm vụ và mối quan tâm của Giám mục, thực thi chúng khi chăm sóc hàng ngày các tín hữu”. Và “vì các linh mục tham dự vào chức tư tế và sứ vụ của Giám mục của họ, các linh mục phải coi ngài như cha họ và vâng phục ngài cách kính trọng” 68. Hơn nữa, “vì không ngừng nhắm đến điều thiện ích cho con cái Thiên Chúa, các linh mục phải nhiệt thành góp công sức vào công trình mục vụ của toàn giáo phận, hơn thế nữa của toàn Hội Thánh” 69.

30. “Trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể”, các linh mục có trách nhiệm lớn, vì các ngài chủ toạ in persona Christi, đưa ra chứng từ và phục vụ sự hiệp thông không những đối với cộng đoàn tham dự trực tiếp vào buổi cử hành, mà còn đối với Hội Thánh toàn cầu, luôn luôn có liên hệ với Bí tích Thánh Thể. Phải lấy làm buồn, nhất là từ những năm cải tổ hậu công đồng, vì hiểu sai việc sáng tạo và thích nghi, mà xảy ra nhiều lạm dụng, gây nên đau khổ cho nhiều người” 70.

31. Khi sống phù hợp với sự dấn thân đã cam kết trong nghi thức Truyền Chức thánh và được lặp lại hằng năm trong Thánh Lễ Dầu, các linh mục phải cử hành “sốt sắng và trung thành các mầu nhiệm của Chúa Kitô, đặc biệt trong Hy Tế Thánh Thể và bí tích hoà giải, theo đúng truyền thống của Hội Thánh, để ca tụng Thiên Chúa và thánh hoá dân Kitô” 71. Vậy, các ngài không được đánh mất ý nghĩa sâu xa của thừa tác vụ của mình, khi tuỳ tiện làm biến dạng buổi cử hành phụng vụ bằng các thay đổi, bỏ sót hoặc thêm thắt 72. Thật vậy, như thánh Ambrôsiô nói : “Hội Thánh không bị thương tổn nơi mình, […] nhưng nơi chúng ta. Vậy, hãy coi chừng đừng gây thương tích cho Hội Thánh vì lỗi của chúng ta” 73. Cho nên phải chú ý để Hội Thánh khỏi bị thương tổn vì các linh mục, đã dâng đời mình cách trọng thể cho thừa tác vụ. Ngược lại, các ngài phải trung thành canh chừng, dưới quyền của Giám mục, sao cho các hành vi làm biến dạng phụng vụ không bị người khác phạm phải.

32. “Cha xứ phải chăm lo sao cho Bí tích Thánh Thể trở thành trung tâm của cộng đoàn tín hữu giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho tín hữu được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng các bí tích và đặc biệt làm cho tín hữu thường xuyên đến với Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống Hối; ngài cũng cố gắng dạy họ cầu nguyện, kể cả trong gia đình, và làm cho họ tham dự cách ý thức và tích cực vào phụng vụ thánh mà ngài với tính cách là cha xứ, dưới quyền của Giám mục giáo phận, phải điều khiển trong giáo xứ của ngài, và ngài phải canh chừng đừng để lạm dụng nào len lỏi vào” 74. Để chuẩn bị cách thoả đáng các buổi cử hành phụng vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, cha xứ nên nhờ sự trợ giúp của vài tín hữu, nhưng ngài không được nhường cho họ điều thuộc nhiệm vụ ngài trong lãnh vực phụng vụ.

33. Sau cùng, “mọi linh mục phải lo trau giồi kiến thức và nghệ thuật phụng vụ, để thừa tác vụ phụng vụ của họ giúp các cộng đoàn Kitô hữu được giao phó cho các ngài ca tụng Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần cách luôn luôn hoàn hảo hơn 75. Nhất là, các ngài phải thấm nhuần tâm tình thán phục và kinh ngạc, mà mầu nhiệm phục sinh, được cử hành trong Bí tích Thánh Thể, làm phát sinh trong tâm hồn các tín hữu 76.

4. CÁC PHÓ TẾ

34. Các phó tế “được đặt tay không phải nhằm chức tư tế, mà nhằm việc phục vụ” 77, các thầy phải là những người có tiếng tốt 78, và phải cư xử sao với sự trợ giúp của Thiên Chúa, các thầy được nhìn nhận như là những môn đệ đích thực của Đấng 79 “không đến để được phục vụ, mà để phục vụ” 80 và ở giữa các môn đệ Người “như là người phục vụ” 81. Hơn nữa, các phó tế được củng cố bởi ân huệ Chúa Thánh Thần mà họ đã lãnh nhận khi được đặt tay, để phục vụ dân Chúa, trong sự hiệp thông với Giám mục và linh mục đoàn của ngài 82. Chính vì thế họ phải coi Giám mục như người cha, và phải giúp đỡ ngài, cũng như các linh mục “trong thừa tác vụ lời, bàn thờ và bác ái” 83.

35. Họ đừng bao giờ quên “gìn giữ mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch 84, và công bố đức tin ấy qua lời nói và hành động của mình, với lòng trung thành với Tin Mừng và truyền thống của Hội Thánh” 85. Họ phải phục vụ hết lòng, cách trung thành và khiêm cung, Phụng Vụ thánh là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Hội Thánh, “để mọi người, một khi trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và phép rửa, họ tập họp, ca tụng Thiên Chúa giữa lòng Hội Thánh, tham dự vào Hy Lễ và dùng Bữa Tiệc Ly của Chúa” 86. Vậy mọi phó tế có bổn phận làm cho Phụng Vụ thánh được cử hành theo các quy luật ghi trong các sách phụng vụ được phê chuẩn phải phép.

CHƯƠNG II: SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN VÀO VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ

1. THAM DỰ TÍCH CỰC VÀ Ý THỨC

36. Việc cử hành Thánh Lễ, hành động của Chúa Kitô và của Hội Thánh, là trung tâm của toàn thể đời sống Kitô hữu cho Hội Thánh phổ quát cũng như Hội Thánh địa phương, và cho mỗi một tín hữu 87, “mà nó tác động cách khác nhau, tuỳ chức thánh, nhiệm vụ và sự tham dự hữu hiệu” 88. Nhờ thế, dân Kitô, “chủng tộc tuyển chọn, chức tư tế vương giả, dân thánh, dân được cứu chuộc” 89 biểu lộ sự đoàn kết và tổ chức phẩm trật của mình” 90. Chức tư tế cọng đồng của tín hữu và chức tư tế thừa tác hoặc phẩm trật, dù giữa chúng có sự khác biệt về yếu tính chứ không chỉ về mức độ, nhưng hướng về nhau; thật vậy, cả hai, theo cách riêng của mình, đều dự phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô” 91.

37. Nhờ phép rửa, mọi tín hữu của Chúa Kitô được giải thoát khỏi tội lỗi mình và nhập hiệp vào Hội Thánh; vậy nhờ ấn tích ghi trên họ bởi phép rửa, họ được đặt cử để thờ phượng theo Kitô giáo 92, để vì chức tư tế vương giả của họ 93 và nhờ kiên trì cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa 94, họ dâng chính mình như của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa, xác nhận việc hiến dâng ấy bằng mọi việc làm của họ 95. Họ làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên thế giới, và trước mặt tất cả những ai yêu cầu họ, họ không ngần ngại trả lẽ về niềm hy vọng đời sống vĩnh cửu có trong họ 96. Do đó, việc tham dự của các tín hữu vào buổi cử hành Bí tích Thánh Thể và những nghi thức khác của Hội Thánh không thể chỉ đơn thuần là hiện diện, tệ hơn nữa là thụ động, nhưng phải được xem là một việc thực hành đức tin và phẩm giá phép rửa.

38. Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hy lễ. Giáo lý vững bền của Hội Thánh trên phải được xem là một trong những chìa khoá chính cho việc tham dự của mọi tín hữu vào Bí Tích cực thánh 97. “Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và giá trị hơn một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ” 98.

39. Để thăng tiến và biểu lộ sự tham dự tích cực của tín hữu, các sách phụng vụ mới ban hành đưa ra, theo ý của Công đồng, những lời tung hô của dân chúng, những câu đáp, thánh vịnh, điệp ca, bài hát, cũng như các hành động và cử chỉ, thái độ thân thể, và đã cẩn thận cho giữ thinh lặng thánh vào thời điểm thích hợp, cũng tiên liệu trong luật chữ đỏ những phần thuộc về tín hữu 99. Hơn nữa, còn dành một khoảng rộng cho tự do thích nghi chính đáng, dựa trên nguyên tắc là mỗi buổi cử hành phải được thích nghi với các nhu cầu của tham dự viên, cũng như khả năng, việc chuẩn bị nội tâm và năng lực riêng của họ, theo các năng quyền đã được các quy luật phụng vụ ấn định. Trong mỗi buổi cử hành, có nhiều khả năng trong việc chọn lựa các bài hát, âm điệu, lời nguyện và bài đọc thánh kinh, cũng như trong khung bài giảng, trong việc chuẩn bị lời nguyện tín hữu, trong các lời huấn dụ và trong cách trang trí thánh đường theo mùa phụng vụ. Các yếu tố này phải góp phần vào việc làm nổi rõ hơn các phong phú của truyền thống phụng vụ, và dù vẫn quan tâm đến các nhu cầu mục vụ, chúng mang lại một nét đặc biệt cho buổi cử hành, trong mục đích khuyến khích sự tham dự nội tâm. Tuy nhiên, phải nhớ rằng hiệu năng của các hành động phụng vụ không nằm trong những thay đổi thường xuyên các nghi thức, nhưng thực ra trong việc đào sâu lời Chúa và mầu nhiệm cử hành 100.

40. Tuy nhiên, dù buổi cử hành phụng vụ cần đến sự tham dự tích cực của mọi tín hữu, nhưng không phải vì thế mà nhất thiết mọi người phải làm cái gì khác với những cử chỉ và thái độ thân thể đã được trù liệu, như thể mỗi người phải nhất thiết đảm trách một phận vụ chuyên biệt trong lãnh vực phụng vụ. Đúng hơn phải làm sao cho việc huấn luyện giáo lý lưu tâm sửa chữa những quan niệm và những thực hành hời hợt được phổ biến ở vài nơi, trong những năm gần đây, và quan tâm làm sống động không ngừng nơi tín hữu ý thức thán phục sâu xa đối với tính chất cao vời của mầu nhiệm đức tin này, tức Bí tích Thánh Thể. Thực ra, khi cử hành Bí tích Thánh Thể, Hội Thánh không ngừng “đi từ cái cũ sang cái mới” 101. Thật vậy, trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, cũng như trong toàn bộ đời sống Kitô hữu được múc lấy sức lực nơi Bí tích Thánh Thể và hướng về đó, Hội Thánh, như thánh Tông đồ Tôma, phủ phục, tôn thờ Chúa bị đóng đinh, chết, mai táng và sống lại “trong sự sung mãn của vinh quang thần linh của Người, và Hội Thánh kêu lên mãi mãi : ‘lạy Chúa tôi và Thiên Chúa tôi’” 102.

41. Để khơi dậy, cổ võ và làm lớn mạnh ý thức bên trong phải tham dự tích cực, việc cử hành cần mẫn và lâu dài Phụng Vụ Giờ Kinh tỏ ra rất hữu ích, cũng như việc sử dụng các phụ tích và các việc đạo đức bình dân Kitô giáo. Các thực hành đạo đức này, dù đúng ra không thuộc Phụng Vụ thánh, vẫn có một phẩm giá và tầm quan trọng đặc biệt”, cần phải được duy trì vì mối liên hệ của chúng với tổ chức phụng vụ, nhất là khi chúng được Huấn Quyền phê chuẩn và khen ngợi 103, ở đây phải nhắc đặc biệt đến chuỗi Mân Côi 104. Hơn nữa, vì những thực hành đạo đức này dẫn dân Kitô đến việc lãnh nhận các bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, “cũng như đến việc suy gẫm các mầu nhiệm Ơn Cứu Chuộc chúng ta hoặc bắt chước các gương lành của các thánh, nên chúng góp phần có hiệu quả làm cho chúng ta tham dự vào việc thờ phượng phụng vụ” 105.

42. Cần nhìn nhận rằng Hội Thánh không được thành hình do một quyết định của người trần, nhưng Hội Thánh được triệu tập bởi Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần và Hội Thánh đáp trả bằng đức tin lời kêu gọi nhưng không của Ngài : thật vậy, từ ngữ ekklesia có liên hệ với klesis, nghĩa là “kêu gọi” 106. Vậy người ta không thể hiểu Hy Tế Thánh Thể theo nguyên nghĩa “việc đồng cử hành” của linh mục với dân chúng đang hiện diện 107. Ngược lại, Bí tích Thánh Thể do các linh mục cử hành là một ân huệ “vượt quá một cách triệt để khả năng của cộng đoàn [….]. Để thật sự là một cộng đoàn thánh thể, cộng đoàn tụ họp để cử hành Bí tích Thánh Thể tuyệt đối cần một linh mục đã được truyền chức chủ sự. Mặt khác, cộng đoàn không có khả năng tự ban cho mình thừa tác viên có chức thánh” 108. Cần và khẩn thiết làm mọi cách để loại trừ mọi hàm hồ về vấn đề này, và tìm ra một phương dược cho các khó khăn nảy sinh trong những năm gần đây. Bởi vậy, chỉ nên dùng cách thận trọng kiểu nói như “cộng đoàn cử hành” và những kiểu nói khác tương tự.

2. CÁC PHẬN VỤ CỦA GIÁO DÂN TRONG BUỔI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

43. Vì lợi ích của cộng đoàn và của toàn thể Hội Thánh của Chúa, thật đúng và đáng khen việc trong số các giáo dân có vài người thi hành, theo truyền thống, vài phận vụ trong khuôn khổ buổi cử hành Phụng Vụ thánh 109. Nhiều người nên phân phối với nhau những phận vụ cần thực hiện, hoặc những phần khác nhau của cùng một phận vụ 110.

44. Bên cạnh các thừa tác vụ thiết lập là chức giúp lễ và chức đọc sách 111, thì trong số các phận vụ đặc biệt được nói đến ở trên những phận vụ quan trọng nhất là việc giúp lễ 112 và việc đọc sách 113, được trao cho cách tạm thời và những phận vụ khác được mô tả trong Sách Lễ Rôma 114. Cũng cần kể đến phận vụ làm bánh lễ, giặt khăn thánh. Để cho phụng vụ của Hội Thánh được diễn tiến một cách xứng đáng và đứng đắn, mọi người, thừa tác viên có chức thánh hoặc giáo dân, khi thi hành phận vụ của mình phải làm tất cả những gì thuộc bổn phận mình và chỉ những điều đó thôi” 115, cả trong chính lúc cử hành phụng vụ lẫn trong thời gian chuẩn bị.

45. Phải tránh nguy cơ làm lu mờ tính bổ túc giữa hoạt động của giáo sĩ và hoạt động của giáo dân, hầu vai trò của giáo dân không vướng vào điều mà người ta gọi là “giáo sĩ hoá”, và về phía mình, các thừa tác viên thánh không đảm trách cách sai trái điều thuộc riêng về đời sống và hoạt động của giáo dân 116.

46. Giáo dân, mỗi khi được mời gọi góp phần vào buổi cử hành phụng vụ, phải được chuẩn bị thích đáng và được chọn thể theo đời sống Kitô, đức tin, hạnh kiểm và lòng trung thành của họ đối với Huấn Quyền của Hội Thánh. Họ nên được huấn luyện về phụng vụ hợp với tuổi tác, điều kiện, lối sống và trình độ kiến thức tôn giáo của họ 117. Không nên chọn người mà việc chỉ định có thể gây khó chịu cho giáo dân 118.

48. Hoàn toàn đáng khen việc duy trì thói tục có các trẻ nam hoặc thiếu niên phục vụ bàn thờ như là người giúp lễ, và chúng nên được dạy giáo lý thích nghi với việc phục vụ của chúng và theo khả năng của chúng 119. Không nên quên rằng rất nhiều thừa tác viên thánh xuất thân từ giữa hàng các trẻ giúp lễ này 120. Để thoả đáp có hiệu quả hơn các nhu cầu mục vụ của các trẻ giúp lễ, cần thiết lập và cổ xuý cho chúng những hiệp hội, nếu cần kêu gọi sự tham gia và giúp đỡ của cha mẹ chúng. Khi các hiệp hôi thuộc loại này đạt tầm mức quốc tế, Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích nên soạn thảo hoặc phê chuẩn và nhìn nhận quy chế của chúng 121. Các trẻ nữ và phụ nữ có thể được chấp nhận cho phục vụ bàn thờ, thể theo phán đoán của Giám mục giáo phận; trong trường hợp này, phải theo các quy tắc được ấn định cho vấn đề này 122.

CHƯƠNG III: CỬ HÀNH ĐÚNG THÁNH LỄ

1. CHẤT LIỆU BÍ TÍCH THÁNH THỂ

48. Hy Tế Thánh Thể phải được cử hành với bánh không men, làm bằng bột mì tinh và mới vừa chế tạo để tránh mọi nguy cơ hư hỏng 123. Do đó, bánh được chế biến với một chất khác, dù là ngũ cốc, hoặc bánh mà người ta thêm vào một chất khác với bột mì, trong một lượng nhiều đến nỗi theo ý kiến chung, người ta không thể xem đó là bánh bột mì nữa, thì không còn là chất thể thành sự cho việc cử hành Hy Tế và Bí tích Thánh Thể 124. Sự kiện đưa những chất khác vào việc chế tạo bánh dùng cho Bí tích Thánh Thể, như trái cây, đường hoặc mật ong, là một lạm dụng nghiêm trọng. Hiển nhiên các bánh lễ nên được chế tạo bởi những người không chỉ nổi bật về lòng đạo đức, mà còn thông thạo trong lãnh vực này và sử dụng những dụng cụ thích hợp 125.

49. Vì lý do dấu chỉ diễn tả, vài phần của bánh Thánh Thể, sau nghi thức bẻ bánh, nên được phân phát cho vài giáo dân rước lễ. “Tuy nhiên, không hề loại trừ các bánh lễ nhỏ khi người rước lễ quá đông và những lý do mục vụ khác yêu cầu” 126, và hơn nữa có thói quen thường dùng bánh lễ nhỏ không cần phải bẻ.

50. Hy Tế Thánh Thể phải được cử hành với rượu nho tự nhiên, tinh khiết và không bị hư, không pha trộn các chất khác 127. Khi cử hành Thánh Lễ, phải thêm một chút nước vào rượu. Phải cẩn thận bảo quản tốt rượu dùng cho Bí tích Thánh Thể và canh chừng đừng để rượu lễ ra chua 128. Tuyệt đối cấm dùng rượu mà tính xác thực và nguồn gốc có điều đáng ngờ : thật vậy, Hội Thánh đòi hỏi có sự chắc chắn về những điều kiện cần thiết cho tính thành sự của các bí tích. Không có cớ nào có thể biện minh cho việc dùng một thức uống khác, vì không tạo nên một chất thể thành sự.

2. KINH NGUYỆN THÁNH THỂ

51. Chỉ được sử dụng những Kinh Nguyện Thánh Thể có trong Sách Lễ Rôma hoặc được phê chuẩn cách hợp pháp bởi Tông Toà, theo những thể thức và trong những giới hạn mà Tông Toà ấn định. “Không thể dung thứ việc vài linh mục tự cho mình quyền biên soạn Kinh Nguyện Thánh Thể” 129 hoặc thay đổi bản văn đã được Hội Thánh phê chuẩn, hoặc dùng những Kinh Nguyện Thánh Thể khác do cá nhân biên soạn 130.

52. Việc công bố Kinh Nguyện Thánh Thể, tự bản chất là chóp đỉnh của toàn bộ cử hành, được dành riêng cho linh mục thể theo chức thánh. Vậy, thật là một điều sai trái khi cho phó tế, thừa tác viên giáo dân, hoặc một tín hữu hoặc tất cả tín hữu, đọc phần nào đó của Kinh Nguyện Thánh Thể. Vì thế, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc toàn bộ bởi linh mục, và chỉ mình ngài mà thôi 131.

53. Trong khi linh mục chủ tế đọc Kinh Nguyện Thánh Thể, “không được đọc kinh, hát, cũng không được đánh đờn hoặc chơi những nhạc khí nào khác 132, ngoại trừ những lời tung hô của dân chúng đã được phê chuẩn hợp luật, như được nói sau đây.

54. Tuy nhiên, dân chúng luôn luôn tham gia cách tích cực, và không bao giờ hoàn toàn thụ động : “thật vậy, dân chúng kết hợp với linh mục trong đức tin và trong thinh lặng, cũng như bằng những can thiệp được ấn định trong khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể : những lời đáp trong phần đối thoại của Kinh Tiền Tụng, kinh Sanctus, tung hô sau truyền phép và câu tung hô Amen sau vinh tụng ca cuối, cũng như những lời tung hô được Hội Đồng Giám Mục phê chuẩn và Toà Thánh xác nhận 133.

55. Lạm dụng sau đây phổ biến ở vài nơi : Đang khi cử hành Thánh Lễ, linh mục bẻ bánh vào lúc truyền phép. Một lạm dụng như thế trái với truyền thống của Hội Thánh. Phải dứt khoát lên án và cấp bách sửa chữa.

56. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể, không được bỏ nêu tên Đức Giáo Hoàng và Giám mục giáo phận, để tôn trọng một truyền thống lâu đời và biểu lộ sự hiệp thông của Hội Thánh. Thực vậy, “hiệp thông mang tính giáo hội của cộng đoàn thánh thể cũng là hiệp thông với Giám mục của mình và với Đức Giáo Hoàng Rôma” 134.

3. NHỮNG PHẦN KHÁC CỦA THÁNH LỄ

57. Cộng đoàn các tín hữu có quyền yêu cầu, nhất là trong buổi cử hành ngày Chúa nhật, thánh nhạc phải xứng hợp và đích thực, bàn thờ, các trang hoàng và khăn thánh phải luôn luôn toả chiếu sự trang trọng, đẹp đẽ và sạch sẽ, theo đúng các quy luật.

58. Mọi tín hữu có quyền đòi việc cử hành Bí tích Thánh Thể phải được chuẩn bị chu đáo trong mọi giai đoạn, lời Chúa phải được công bố và giải thích cách đứng đắn và hiệu quả, năng quyền chọn lựa các bản văn phụng vụ và các nghi thức phải được thực thi cách cẩn thận, theo đúng các quy định, và trong lúc cử hành Phụng Vụ, các lời bài hát phải bảo tồn và nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu.

59. Cách làm đáng lên án sau đây phải ngưng ngay : đây đó có trường hợp linh mục, phó tế hoặc tín hữu tự ý đưa các thay đổi vào trong các bản văn của Phụng Vụ thánh, mà họ có nhiệm vụ công bố. Thật vậy, cách làm ấy gây hệ quả là làm cho việc cử hành Phụng Vụ thánh không bền vững, và không hiếm trường hợp nó đi đến mức làm sai lạc ý nghĩa đích thực của Phụng Vụ.

60. Trong buổi cử hành Thánh Lễ, phụng vụ Lời và phụng vụ Thánh Thể liên kết chặt chẽ với nhau, và làm nên một hành vi thờ phượng duy nhất mà thôi. Vậy không được phép tách rời chúng, cũng không được cử hành chúng vào hai thời gian và hai địa điểm khác nhau 135. Cũng không được phép cử hành các phần khác nhau của Thánh Lễ vào hai lúc khác nhau, dù là trong cùng một ngày.

61. Về việc chọn các bài đọc thánh kinh phải công bố trong buổi cử hành Thánh Lễ, người ta phải tuân giữ các quy luật ghi trong các sách phụng vụ136, để thật sự “bàn tiệc lời Chúa được dọn cho tín hữu cách dồi dào hơn, và các kho tàng thánh kinh được mở ra cho họ cách rộng rãi hơn” 137.

62. Không được phép bỏ hoặc tuỳ tiện thay đổi các bài đọc thánh kinh đã được quy định, cũng không được thay thế “các bài đọc và thánh vịnh đáp ca chứa đựng lời Chúa bằng những bản văn khác được chọn ngoài Thánh Kinh” 138.

63. Trong buổi cử hành Phụng Vụ thánh, bài Tin Mừng “là chóp đỉnh của phụng vụ Lời” 139, nên được dành cho thừa tác viên có chức thánh 140, theo truyền thống của Hội Thánh. Vậy không được phép để cho một giáo dân, kể cả tu sĩ, công bố Tin Mừng trong buổi cử hành Thánh Lễ, cũng như trong các trường hợp khác, mà quy luật không minh nhiên cho phép làm thế 141.

64. Bài giảng được ban bố trong buổi cử hành Thánh Lễ và là thành phần của phụng vụ 142, thường do chính vị linh mục chủ tế hoặc một linh mục đồng tế đảm trách, đôi khi cũng do một phó tế làm, nhưng không bao giờ do một giáo dân 143. Trong những trường hợp đặc biệt và có lý do chính đáng, một Giám mục hoặc một linh mục tham dự buổi cử hành mà không đồng tế cũng có thể giảng” 144.

65. Cần nhắc lại là Giáo luật khoản 767 # 1 đã bãi bỏ mọi quy luật trước đây cho phép các tín hữu không có chức thánh giảng trong buổi cử hành Thánh Thể 145. Thật vậy, sự cho phép như thế phải bị lên án mạnh mẽ, và không có tập tục nào có thể biện minh cho việc ban phép ấy.

66. Việc cấm giáo dân giảng trong Thánh Lễ cũng áp dụng cho các chủng sinh, các sinh viên thần học, những ai giữ phận vụ “trợ tá mục vụ”, và bất cứ loại nhóm, phong trào, hiệp hội giáo dân 146.

67. Đặc biệt, phải quan tâm để bài giảng tập chú nghiêm túc trên mầu nhiệm cứu độ, trình bày theo năm phụng vụ và đi từ các bài đọc thánh kinh, các mầu nhiệm đức tin và các quy tắc của đời sống Kitô, hay là chú giải các bản văn của phần Thường Lễ hoặc phần Riêng, hoặc nghi thức nào khác của Hội Thánh 147. Dĩ nhiên là mọi giải thích Thánh Kinh phải dẫn đến Chúa Kitô, vì Người là trục tối thượng của nhiệm cục cứu độ; tuy nhiên, bài giải thích cũng phải lưu ý đến bối cảnh đặc biệt của buổi cử hành phụng vụ. Người giảng phải chú ý dọi ánh sáng Chúa Kitô trên các biến cố cuộc đời. Dù thế ngài không được bỏ qua ý nghĩa đích thực và thật sự của lời Chúa, chẳng hạn chỉ quy chiếu về những khía cạnh chính trị hoặc chỉ dùng những lý lẽ phàm tục, hoặc lấy hứng từ những ý niệm mượn từ những phong trào nguỵ tôn giáo nhan nhãn trong thời đại chúng ta 148.

68. Giám mục giáo phận phải để ý đến bài giảng 149 bằng cách đưa ra các quy luật, các định hướng và trợ giúp cho các thừa tác viên thánh, cũng như khuyến khích những buổi gặp gỡ và những sáng kiến khác, để họ thường xuyên có cơ hội suy tư về bản chất của bài giảng và giúp họ chuẩn bị bài giảng.

69. Trong Thánh Lễ, cũng như trong mọi cử hành Phụng Vụ thánh khác, không được phép sử dụng một Kinh Tin Kính không có trong các sách phụng vụ được phê chuẩn hợp lệ.

70. Các lễ phẩm mà tín hữu có thói quen dâng trong Thánh Lễ không nhất thiết chỉ là bánh và rượu, dùng vào việc cử hành Bí tích Thánh Thể, mà chúng cũng có thể gồm những tặng vật khác, được tín hữu mang đến, nghĩa là tiền bạc hoặc những của cải khác dùng vào việc bác ái cho người nghèo. Tuy nhiên, những lễ phẩm thực tiễn phải luôn luôn là biểu lộ hữu hình của lễ dâng đích thực mà Chúa chờ đợi nơi chúng ta : một tấm lòng thống hối và tình yêu Chúa và tha nhân, làm chúng ta tương hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Đấng đã nộp mình vì chúng ta. Thật vậy, chính trong Bí tích Thánh Thể mà toả chiếu ở mức cao nhất mầu nhiệm tình bác ái, mà Chúa Giêsu Kitô đã bày tỏ trong bữa Tiệc Ly, khi Người rửa chân cho các môn đệ. Tuy nhiên, để bảo tồn phẩm giá của Phụng Vụ thánh, các lễ phẫm thực tiễn phải được tiến dâng một cách đứng đắn. Vì thế tiền bạc, cũng như những tặng vật khác dành cho người nghèo, phải được đặt ở một nơi thích hợp, ngoài bàn thờ 150. Ngoài tiền bạc và một phần nhỏ những tặng vật khác như là dấu chỉ cho những ân huệ quan trọng hơn, nên dâng những tặng vật này ngoài Thánh Lễ.

71. Phải duy trì thói tục của Nghi Lễ Rôma trao bình an trước khi cho Rước Lễ, như được dự liệu trong Nghi thức Thánh Lễ. Thật vậy, theo truyền thống của Nghi thức Rôma, thói tục ấy không mang nét hoà giải, hoặc tha thứ tội lỗi, mà đúng hơn có mục đích biệu lộ hoà bình, sự hiệp thông và tình bác ái, trước khi lãnh nhận Thánh Thể 151. Ngược lại, nghi thức thống hối đầu Thánh Lễ, đặc biệt nếu được làm theo hình thức thứ nhất, mang đặc tính diễn tả sự hoà giải giữa các anh em.

72. “Mỗi người nên chúc bình an một cách giản dị cho những người kế cận”. “Linh mục có thể trao bình an cho các thừa tác viên, tuy nhiên phải đứng trên cung thánh, để khỏi làm xáo trộn buổi cử hành. Ngài cũng có thể trao bình an cho vài tín hữu, nếu ngài muốn và khi có lý do chính đáng”. “Hội Đồng Giám Mục ấn định dấu chỉ bình an phải trao, theo tâm thức, thói quen và tập quán của các dân tộc và được Tông Toà xác nhận” 152.

73. Trong buổi cử hành Thánh Lễ, việc bẻ bánh Thánh Thể bắt đầu sau khi trao bình an, trong lúc đọc kinh Agnus Dei. Việc bẻ bánh chỉ do linh mục chủ tế thực hiện, và nếu cần, có sự trợ giúp của một phó tế hay một vị đồng tế, nhưng không bao giờ một giáo dân. Thật vậy, cử chỉ bẻ bánh “được Chúa Kitô thực hiện trong bữa Tiệc Ly và từ thời các Tông đồ đã ban tên gọi cho toàn bộ hành động thánh thể, cử chỉ này có nghĩa là nhiều tín hữu khi hiệp thông vào tấm bánh sự sống duy nhất, là Chúa Kitô, chết và sống lại vì phần rỗi thế gian, thì trở nên một thân thể (1 Cr 10, 17)” 153. Chính vì thế, phải làm nghi thức này với lòng tôn kính sâu xa 154. Tuy nhiên, không nên kéo dài quá đáng. Phải mau chóng sửa chữa lạm dụng đang phổ biến ở vài nơi là kéo dài nghi thức này quá mức cần thiết, và nhờ đến sự trợ giúp của giáo dân, ngược với các quy luật, và gán cho nghi thức này một tầm quan trọng quá mức 155.

74. Nếu cần thiết cho một giáo dân thông báo tin tức hoặc đưa ra một chứng từ sống đời Kitô hữu cho các tín hữu tụ họp trong thánh đường, thì cách chung nên làm ngoài Thánh Lễ. Tuy nhiên, vì những lý do quan trọng, được phép đưa ra loại tin tức ấy hoặc chứng từ khi linh mục đã đọc xong lời nguyện Hiệp Lễ. Dầu vậy, một cách làm như thế không nên trở thành thói quen. Hơn nữa, những tin tức và chứng từ đó không được mang những tính chất có thể gây lẫn lộn với bài giảng 156, cũng như không là lý do để bỏ không giảng.

4. VIỆC KẾT HỢP NHỮNG NGHI THỨC KHÁC VỚI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

75. Vì một lý do thần học gắn liền với việc cử hành Bí tích Thánh Thể hoặc một nghi thức đặc biệt, các sách phụng vụ truyền hoặc đôi khi cho phép việc cử hành Thánh Lễ được liên kết với một nghi thức khác, đặc biệt những nghi thức của các Bí Tích 157. Tuy nhiên, Hội Thánh không chấp nhận một sự liên kết như thế trong những trường hợp khác, đặc biệt khi lý do không được sâu xa.

76. Hơn nữa, theo truyền thống rất cổ của Hội Thánh Rôma, không được phép liên kết Bí tích Thống Hối với Thánh Lễ thành một hành động phụng vụ duy nhất. Tuy nhiên, điều trên không ngăn cấm vì nhu cầu của tín hữu, các linh mục không cử hành hay đồng tế Thánh Lễ có thể nghe tín hữu xưng tội, cùng lúc và trong cùng nơi cử hành Thánh Lễ 158. Tuy nhiên điều này nên diễn tiến cách thích hợp.

77. Tuyệt đối không được phép nối kết việc cử hành Thánh Lễ với một bữa ăn thường, cũng không được liên kết Thánh Lễ với một bữa tiệc. Ngoại trừ trường hợp tối cần thiết, không được phép cử hành Thánh Lễ trên một bàn ăn 159, hoặc trong một nhà ăn, hoặc trong một nơi được dùng vào mục đích ăn uống, cũng như trong bất cứ chỗ nào có thức ăn, những người dự Thánh Lễ cũng không được phép ngồi vào bàn trong lúc cử hành. Nếu, trong trường hợp tối cần thiết, phải cử hành Thánh Lễ trong cùng nơi mà người ta dự kiến sẽ dùng bữa sau đó, thì phải giữ một khoảng thời gian giữa cuối Thánh Lễ và đầu bữa ăn, và cấm trình diện thức ăn cho tín hữu trong lúc cử hành Thánh Lễ.

78. Không được phép kết hợp việc cử hành Thánh Lễ với những sự kiện có tính chính trị hoặc phàm tục, hoặc với những yếu tố hoàn toàn không phù hợp với Huấn Quyền của Hội Thánh công giáo. Hơn nữa, để Bí tích Thánh Thể khỏi đánh mất ý nghĩa đích thực của nó, tuyệt đối tránh cử hành Thánh Lễ với chỉ ước muốn trình diễn, hoặc cử hành Thánh Lễ theo cung cách những lễ nghi khác, nhất là những lễ nghi phàm tục.

79. Sau cùng, phải mạnh mẽ lên án việc làm sai trái đưa vào trong việc cử hành Thánh Lễ những yếu tố vay mượn từ những nghi thức của các tôn giáo khác, ngược với các chỉ thị của các sách phụng vụ.

CHƯƠNG IV: RƯỚC LỄ

1. NHỮNG TRẠNG THÁI PHẢI CÓ ĐỂ RƯỚC LỄ

80. Như đã được nêu rõ trong các phần khác nhau của Thánh Lễ, Bí tích Thánh Thể cũng phải được trình bày cho tín hữu như là “phương thuốc giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày và gìn giữ chúng ta khỏi phạm tội trọng” 160. Hành vi thống hối, nằm ở đầu Thánh Lễ, có mục đích giúp các người tham dự dọn mình cử hành các mầu nhiệm thánh cách xứng đáng 161; tuy nhiên, “hành vi ấy không có hiệu năng của bí tích Thống Hối 162, và không thể thay thế cho bí tích Thống Hối trong việc tha các tội trọng. Các mục tử phải quan tâm sao cho giáo lý Kitô trong lãnh vực này được truyền dạy cho các tín hữu.

81. Hội Thánh cũng có thói quen quả quyết rằng mỗi người cần kiểm thảo chính mình 163, hầu ai ý thức mình đang mắc tội trọng, thì không được cử hành Thánh Lễ, cũng như không rước Mình Thánh Chúa, nếu trước đó không chạy đến với phép Giải Tội, trừ trường hợp có lý do nghiêm trọng và không thể đi xưng tội. Trong trường hợp này, người ấy không được quên rằng mình bị buộc phải ăn năn tội cách trọn, trong đó bao hàm quyết tâm đi xưng tội sớm hết sức 164.

82. Hơn nữa, “Hội Thánh đã ban hành những quy luật nhắm vừa khuyến khích việc các tín hữu thường xuyên và hiệu quả đến với Bàn Tiệc Thánh Thể, vừa xác định những điều kiện khách quan theo đó cấm không cho rước lễ” 165.

83. Chắc chắn thật là tốt nếu tất cả những ai tham dự vào buổi cử hành Thánh Lễ lên rước lễ trong buổi cử hành đó, miễn là họ hội đủ những điều kiện cho phép họ rước lễ. Tuy nhiên đôi khi xảy ra việc tín hữu đến gần bàn thánh quá đông mà không có sự suy xét cần thiết. Vậy các mục tử có bổn phận sửa chữa lạm dụng ấy cách khôn khéo và cương quyết.

84. Hơn nữa, khi Thánh Lễ được cử hành cho một đám đông, hoặc trong những thành phố lớn chẳng hạn, phải chú ý đừng để người không công giáo hoặc người không phải Kitô hữu, lên rước lễ vì không biết, trái với Huấn Quyền của Hội Thánh về phương diện tín lý lẫn kỷ luật. Vậy các mục tử phải báo vào lúc thuận tiện cho những người hiện diện trong buổi cử hành về chân lý và kỷ luật là những điều cần phải được tuân giữ nghiêm ngặt.

85. Các thừa tác viên công giáo ban cách hợp pháp các bí tích cho những tín hữu công giáo mà thôi. Cũng vậy tín hữu công giáo chỉ nhận cách hợp pháp các bí tích từ những thừa tác viên công giáo mà thôi, dĩ nhiên những điều nói đến trong giáo luật điều 844 ## 2, 3 và 4 và điều 861 #2 166 vẫn có hiệu lực. Hơn nữa, những điều kiện nói đến trong giáo luật điều 844 # 4 không thể tách biệt nhau và không được vi phạm bất cứ vì lý do gì 167: vậy các điều kiện ấy cần phải được luôn luôn hội đủ cùng lúc.

86. Phải liên lỉ khuyến khích tín hữu chạy đến với bí tích thống hối ngoài lúc cử hành Thánh Lễ, nhất là vào những giờ ấn định. Như vậy, bí tích này được ban cho họ cách an bình và vì lợi ích thực sự của họ, và họ cũng không bị ngăn trở tham dự Thánh Lễ cách tích cực. Phải dạy bảo những người có thói quen rước lễ mỗi ngày hoặc rất thường xuyên, về tầm quan trọng của việc lãnh nhận bí tích thống hối một cách đều đặn, tuỳ theo khả năng mỗi người 168.

87. Trước khi cho trẻ em rước lễ lần đầu, luôn luôn phải cho các em xưng tội và lãnh xá giải 169. Hơn nữa, việc rước lễ lần đầu phải luôn luôn do một linh mục ban và không bao giờ được lãnh nhận ngoài buổi cử hành Thánh Lễ. Ngoại trừ trong những trường hợp rất đặc biệt, thật ít thích hợp ban rước lễ lần đầu trong Thánh Lễ Tiệc Ly ngày thứ Năm Thánh. Nên chọn một ngày khác, như các Chúa nhật Phục Sinh (từ thứ 2 đến thứ 6) hoặc lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hoặc các Chúa nhật “quanh năm”, vì Chúa nhật được coi cách đúng đắn là ngày của Bí tích Thánh Thể 170. “Các trẻ em chưa đến tuổi khôn” hoặc những người mà cha sở “xét là chưa chuẩn bị đủ” không nên được cho rước lễ 171. Tuy nhiên, hoạ hiếm có trường hợp một trẻ, dù còn nhỏ tuổi, nhưng xét thấy là đủ chín mùi để rước lễ; trong trường hợp này, không nên từ chối cho nó rước lễ lần đầu, miễn là phải dạy dỗ nó đủ.

2. VIỆC CHO RƯỚC LỄ

88. Bình thường các tín hữu rước Thánh Thể trong Thánh Lễ và vào lúc quy định bởi nghi thức cử hành, nghĩa là ngay sau khi linh mục chủ tế rước lễ 172. Linh mục chủ tế có nhiệm vụ cho rước lễ, với sự giúp đỡ của các linh mục khác hoặc các phó tế, nếu có. Không được tiếp tục Thánh Lễ nếu các tín hữu chưa rước lễ xong. Các thừa tác viên ngoại thường có thể giúp linh mục chủ tế, theo đúng các quy định của luật và chỉ trong trường hợp cần thiết 173.

89. Để “nhờ các dấu chỉ, việc rước lễ tỏ ra là sự tham dự vào Hy Tế hiện đang cử hành” 174, các tín hữu nên rước lễ với bánh truyền phép trong Thánh Lễ 175.

90. “Tín hữu rước lễ quỳ hoặc đứng, tuỳ Hội Đồng Giám Mục ấn định, với sự xác nhận của Tông Toà. “Tuy nhiên, khi họ rước lễ đứng, thì khuyên họ trước khi nhận Thánh Thể, nên làm một cử chỉ tôn kính, mà Hội Đồng Giám Mục sẽ ấn định” 176.

91. Về việc cho rước lễ, phải nhắc lại rằng “các thừa tác viên thánh không được từ chối ban các bí tích cho những người xin cách thích hợp, được chuẩn bị đàng hoàng và không bị ngăn trở bởi luật để lãnh nhận” 177. Vậy, mọi người đã chịu phép rửa, không bị ngăn trở bởi luật, phải được cho rước lễ. Do đó không được phép từ chối cho một tín hữu rước lễ chỉ vì lý do người ấy muốn rước lễ đứng hoặc quỳ.

92 Mọi tín hữu luôn luôn có quyền chọn rước lễ nơi miệng 178. Nếu người rước lễ muốn nhận Thánh Thể trong tay, nơi những miền mà Hội Đồng Giám Mục cho phép, với sự xác nhận của Tông Toà, thì người ta có thể ban Mình Thánh cho họ. Tuy nhiên, trong trường hợp này người rước lễ phải nuốt ngay bánh thánh trước mặt thừa tác viên, để đừng ai rời đi mà vẫn cầm Mình Thánh trong tay. Nếu có nguy cơ phạm thánh, thì không được cho rước lễ trong tay tín hữu 179.

93. Phải duy trì tập quán dùng dĩa hứng khi cho tín hữu rước lễ, để tránh bánh thánh, hoặc một mãnh bánh thánh, rơi xuống đất 180.

94. Không cho phép tín hữu “tự mình cầm lấy bánh thánh hoặc chén thánh, càng không được truyền tay nhau” 181. Hơn nữa, về vấn đề này, phải chấm dứt lạm dụng sau đây: trong Thánh Lễ hôn phối, đôi tân hôn cho nhau rước lễ.

95. Giáo dân “đã rước lễ rồi có thể rước lần nữa trong cùng ngày, nhưng chỉ trong buổi cử hành Thánh Thể mà họ tham dự, dĩ nhiên phải tuân theo giáo luật điều 921 # 2 182.

96. Có nơi trước hoặc trong khi cử hành Thánh Lễ, người ta phân phát theo kiểu cho rước lễ những bánh lễ chưa truyền phép hoặc những đồ vật khác có thể ăn được hay không, phải mạnh mẽ lên án cách làm ấy, vì ngược với các chỉ thị của các sách phụng vụ. Thật vậy, điều ấy không hợp với truyền thống của Nghi Lễ Rôma và chứa đựng nguy cơ gây hoang mang trong tâm trí của tín hữu về giáo lý Thánh Thể của Hội Thánh. Nếu ở vài nơi, do một đặc nhượng, có thói tục đặc biệt chúc lành bánh để rồi phân phát sau Thánh Lễ, thì phải rất cẩn thận đưa ra một lời dạy giáo lý thích hợp về ý nghĩa của cử chỉ này. Tuy nhiên, không được phép du nhập những cách làm khác tương tự, và không bao giờ dùng những bánh lễ chưa truyền phép vào một mục đích như thế.

3. VIỆC RƯỚC LỄ CỦA LINH MỤC

97. Mỗi lần linh mục cử hành Thánh Lễ, ngài phải rước lễ tại bàn thờ, vào lúc ấn định theo Sách Lễ. Các vị đồng tế cũng phải rước lễ trước khi đi cho tín hữu rước lễ. Linh mục chủ tế hoặc đồng tế không bao giờ được đợi dân chúng rước lễ xong rồi mình mới rước lễ 183.

98. Việc rước lễ của các linh mục đồng tế phải diễn tiến theo các quy luật ghi trong các sách phụng vụ, và luôn luôn với những bánh lễ được truyền phép trong chính buổi cử hành Thánh Lễ 184; hơn nữa, tất cả các vị đồng tế phải luôn luôn rước lễ dưới hai hình. Cần ghi nhớ rằng, khi linh mục hoặc phó tế đưa bánh thánh hoặc chén cho các vị đồng tế, ngài không nói gì, nghĩa là không nói những câu: “Mình Thánh Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô”.

99. “Các linh mục không thể cử hành hoặc đồng tế luôn luôn được phép rước lễ dưới hai hình” 185.

4. RƯỚC LỄ DƯỚI HAI HÌNH

100. Để tỏ rõ ràng hơn cho các tín hữu dấu chỉ đầy đủ của bữa tiệc Thánh Thể, giáo dân cũng được cho rước lễ dưới hai hình trong những trường hợp được dự kiến trong các sách phụng vụ, với điều kiện phải dạy trước và thường xuyên giáo lý thích hợp về các nguyên lý tín lý đã được Công đồng chung Trentô thiết lập về lãnh vực này 186.

101. Để ban rước lễ hai hình cho giáo dân, phải lưu ý một cách thích hợp đến các hoàn cảnh, mà việc lượng giá được dành trước hết cho Giám Mục giáo phận. Phải tuyệt đối không ban rước lễ hai hình, khi có một nguy cơ phạm thánh, dù nhỏ nhất 187. Để đảm bảo có sự phối hợp rộng hơn trong lãnh vực này, các Hội Đồng Giám Mục cần ban hành những quy tắc liên quan đến “cách thức cho rước lễ dưới hai hình cho tín hữu và việc mở rộng năng quyền cho rước lễ dưới hai hình” 188; những quy tắc này phải được xác nhận bởi Tông Toà, nghĩa là bởi Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích.

102. Không được cho giáo dân rước chén thánh nếu, vì có quá đông người rước lễ 189, thật khó biết lượng rượu dùng cho Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, phải tránh nguy cơ “còn lại quá nhiều Máu Thánh phải uống vào cuối buổi cử hành” 190. Người ta cũng làm như thế trong những trường hợp khác như sau: khó tổ chức cho rước chén thánh; việc cử hành cần một lượng lớn rượu đến nỗi khó biết chắc chắn xuất xứ và phẩm chất của rượu; không có đủ số các thừa tác viên thánh, cũng như các thừa tác viên ngoại thường được huấn luyện thích hợp, cho rước lễ; một phần đáng kể dân chúng không muốn rước chén thánh vì nhiều lý do, điều này có hệ quả là làm lu mờ một cách nào đó dấu chỉ hiệp nhất.

103. Các quy luật của Sách Lễ Rôma chấp thuận nguyên tắc theo đó, trong những trường hợp cho rước lễ dưới hai hình, “có thể rước Máu Chúa Kitô hoặc bằng cách uống chén trực tiếp, hoặc bằng cách nhúng, hoặc dùng ống hút hay muỗng” 191. Khi cho giáo dân rước lễ, các Giám Mục có thể loại bỏ việc cho rước lễ bằng ống hút hoặc muỗng, ở những nơi chưa quen dùng thế, tuy nhiên luôn luôn có thể cho rước lễ bằng cách chấm. Dầu vậy, trong trường hợp này, phải dùng những bánh lễ không quá mỏng, cũng không quá nhỏ, và người rước lễ phải nhận Thánh Thể từ tay linh mục nơi miệng mà thôi 192.

104. Không cho phép người rước lễ tự mình nhúng bánh thánh vào trong chén, cũng không được nhận trên tay bánh thánh đã nhúng trong Máu Chúa Kitô. Bánh thánh, dùng cho việc rước lễ bằng cách chấm, phải được làm với chất liệu thành sự và được truyền phép. Vậy tuyệt đối cấm dùng bánh chưa truyền phép hoặc chế tạo với một chất liệu khác.

105. Nếu một chén không đủ để cho các linh mục đồng tế hoặc giáo dân rước lễ dưới hai hình, thì không gì ngăn cấm linh mục chủ tế dùng nhiều chén 193. Thật vậy, phải nhớ là mọi linh mục cử hành Thánh Lễ buộc phải rước lễ dưới hai hình. Vì lẽ dấu chỉ tỏ bày, nên dùng một chén chính lớn hơn, cùng với những chén khác nhỏ hơn.

106. Tuy nhiên, sau truyền phép, phải tuyệt đối tránh đổ Máu Chúa Kitô từ chén này sang chén khác, để khỏi xúc phạm mầu nhiệm cực trọng. Để đựng Máu Chúa Kitô, không bao giờ được dùng hủ, bình hoặc những vật chứa khác, không hoàn toàn phù hợp với các quy luật đã ban hành.

107. Theo giáo luật, “ai ném Mình Máu Thánh, hoặc mang đi, hoặc tàng trử vì mục đích phạm thánh, thì bị dứt phép thông công latae sententiae dành riêng cho Tông Toà. Giáo sĩ còn có thể bị thêm hình phạt khác, kể cả cho hồi tục” 194. Người ta cũng phải thêm vào trường hợp trên mọi hành vi khinh dễ, cố ý và nghiêm trọng, đối với Mình Máu Thánh Chúa. Vậy, ai hành động ngược với những quy định nêu trên, chẳng hạn, ném Mình Máu Thánh vào hồ nước trong phòng thánh hoặc vào một nơi bất xứng, hoặc xuống đất, thì bị những hình phạt đã ấn định về chuyện này 195`. Hơn nữa, mọi người phải nhớ tuân giữ những quy định của Sách Lễ Rôma về những gì phải làm sau khi cho rước lễ xong. Đặc biệt, Máu Chúa Kitô còn lại phải được uống ngay bởi chính linh mục hoặc, theo quy định, bởi một thừa tác viên khác. Cũng vậy, các bánh thánh còn lại phải được linh mục rước tại bàn thờ, hoặc chúng được đem cất vào một nơi dùng để lưu giữ Thánh Thể 196.

CHƯƠNG V: VÀI NHẬN XÉT KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH THỂ

1. NƠI CỬ HÀNH THÁNH LỄ

108. “Phải cử hành Bí tích Thánh Thể tại một nơi thánh, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, tình thế cấp thiết đòi làm cách khác; trong trường hợp này, phải cử hành tại một nơi tử tế” 197. Thông thường việc đánh giá tình thế cấp thiết thuộc quyền Giám mục cho từng trường hợp riêng biệt trong giáo phận của ngài.

109. Không bao giờ cho phép linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể trong một đền thờ hoặc một nơi thánh của một tôn giáo ngoài Kitô giáo.

2. VÀI QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH LỄ

110. “Ước gì các linh mục cử hành thường xuyên, vì luôn luôn nhớ rằng công trình cứu chuộc được thực hiện liên tục trong mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể. Hơn nữa, rất khuyên họ nên cử hành hàng ngày, vì đó là hành động của Chúa Kitô và của Hội Thánh, dù không có hiện diện của tín hữu, và vì đó là nhiệm vụ chính của linh mục 198.

111. Một linh mục, “dù xa lạ với vị giám quản thánh đường”, phải được cho cử hành hoặc đồng tế Bí tích Thánh Thể, “miễn là ngài trình giấy giới thiệu (hoặc celebret ) của Tông Toà, hoặc của Đấng Bản Quyền của ngài, hoặc của Bề Trên của ngài, được cấp trong năm, “hoặc vị giám quản xét là không có gì ngăn trở linh mục ấy cử hành” 199. Các Giám mục phải để ý bãi bỏ những thói tục ngược lại.

112. Thánh Lễ được cử hành bằng tiếng la tinh hoặc trong một ngôn ngữ khác, với điều kiện là sử dụng những sách phụng vụ được phê chuẩn theo luật. Ngoài những Thánh Lễ phải được cử hành với tiếng nói của dân chúng, theo đúng giờ và thời gian được giáo quyền ấn định, các linh mục được phép cử hành Thánh Lễ bằng tiếng la tinh, ở bất cứ đâu và vào bất cứ lúc nào 200.

113. Khi có nhiều linh mục đồng tế Thánh Lễ, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc theo ngôn ngữ được tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành biết. Nếu trong số các linh mục hiện diện, vài người không biết ngôn ngữ dùng trong buổi cử hành và như vậy họ không thể đọc các phần của Kinh Nguyện Thánh Thể, mà họ phải đọc, thì họ không nên đồng tế nhưng tốt hơn họ nên dự buổi cử hành với áo surplis, theo đúng luật 201.

114. “Trong các Thánh Lễ Chúa nhật của giáo xứ, với tính cách là “cộng đoàn Thánh Thể”, các nhóm, các phong trào, các hiệp hội và các cộng đoàn tu sĩ nhỏ ở trong giáo xứ nên có mặt” 202. Dù được phép cử hành Thánh Lễ cho những nhóm riêng theo luật 203, các nhóm này không hề được chuẩn miễn tuân giữ trung thành các qui luật phụng vụ.

115. Phải mạnh mẽ lên án việc làm sai trái tự tiện ngưng cử hành Thánh Lễ cho dân chúng, trái với những quy luật của Sách Lễ Rôma và truyền thống tốt lành của Nghi Thức Rôma, viện lẽ là khuyến khích “niềm khao khát Bí tích Thánh Thể”.

116. Không được tăng số các Thánh Lễ, cách trái luật. Về các lễ vật của Thánh Lễ, phải tuân giữ những quy định của luật đang có hiệu lực 204.

3. CÁC BÌNH THÁNH

117. Các bình thánh, dùng vào việc đựng Mình và Máu Chúa, phải được chế tạo theo đúng các quy định của truyền thống và các sách phụng vụ 205. Theo sự phán đoán của các Hội Đồng Giám Mục, có được năng quyền này và được Toà Thánh xác nhận, có thể nên làm các bình thánh bằng những chất liệu khác, miễn là những chất liệu này bền chắc. Tuy nhiên, trong mọi miền, buộc phải chọn những chất liệu mà mọi người cho là cao quý 206, để tỏ lòng tôn kính đối với Chúa, và để hoàn toàn loại trừ, trước mắt tín hữu, mọi nguy cơ làm suy yếu giáo lý Chúa Kitô hiện diện thật sự dưới các hình Thánh Thể. Vậy, sự kiện cử hành Thánh Lễ với bất cứ bình quen dùng hằng ngày hoặc thông dụng, phải bị lên án mạnh mẽ, đặc biệt nếu đấy là những vật dụng không có chút gì nghệ thuật, hoặc chỉ là những giỏ, hoặc những bình bằng thuỷ tinh, bằng đất sét, đất nung hoặc những chất liệu khác dễ vỡ. Điều trên cũng áp dụng cho mọi bình bằng kim loại hoặc bằng những chất liệu hư hỏng dễ dàng 207.

118. Trước khi sử dụng, các bình thánh phải được linh mục làm phép, theo các nghi thức ghi trong các sách phụng vụ 208. Nếu Giám Mục làm phép thì thật đáng khen, vì như thế ngài có thể đánh giá các bình thánh có phù hợp với mục đích của chúng hay không.

119. Khi cho rước lễ xong, linh mục, đứng tại bàn thờ hoặc nơi bàn phụ, lau sạch đĩa thánh hoặc bình bánh thánh trên chén thánh, theo các quy định của Sách Lễ, rồi lau chén thánh với khăn lau. Nếu có thầy phó tế, thì thầy trở lại bàn thờ với linh mục, rồi lau sạch các bình thánh. Tuy nhiên, được phép để các bình phải lau trên khăn thánh, tại bàn thờ hoặc bàn phụ, nhất là khi chúng nhiều, và đậy chúng lại; trong trường hợp này, linh mục hoặc phó tế lau sạch chúng ngay sau Thánh Lễ, khi dân chúng đã ra về. Cũng thế, thầy có chức giúp lễ giúp linh mục hoặc phó tế lau sạch các bình thánh, hoặc tại bàn thờ, hoặc tại bàn phụ, rồi xếp chúng vào chỗ. Nếu không có phó tế, thầy có chức giúp lễ mang các bình thánh về bàn phụ và tại nơi đây thầy lau sạch theo cách thông thường, trước khi xếp gọn chúng lại 209.

120. Các mục tử phải quan tâm sao cho các khăn thánh của bàn thờ luôn luôn sạch sẽ, đặc biệt là những khăn tiếp xúc với Mình Máu Thánh. Vậy phải giặt các khăn thánh thường xuyên, theo những tập tục được truyền lại trung thành. Do đó, thật là đáng khen sau khi giặt bằng tay nước đầu tiên, thì đổ nước đã dùng trong hồ nơi phòng thánh của thánh đường hoặc trực tiếp trên đất ở một chỗ thích hợp. Rồi, giặt nước mới theo cách thông thường.

4. Y PHỤC PHỤNG VỤ

121. “Việc dùng các màu khác nhau cho các y phục phụng vụ nhằm diễn tả cách hữu hiệu và có thể thấy được nét đặc trưng của các mầu nhiệm đức tin được cử hành và, do đó, ý nghĩa của đời sống Kitô đang tiến tới theo dòng diễn tiến của năm phụng vụ” 210. Mặt khác, sự khác biệt “của các phận vụ trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể được biểu lộ ra bên ngoài nơi sự khác biệt của các y phục phụng vụ”. Sau nữa, các y phục này cũng góp phần làm tăng vẻ đẹp của hành động phụng vụ” 211.

122. “Ao alba được siết nơi thắt lưng bằng dây, trừ khi áo được may sát thân mình nên không cần dây. Phải mang khăn vai trước khi mặc áo alba, nếu áo này không che kín áo thường nơi cổ” 212.

123. Ao riêng của linh mục chủ tế khi cử hành Thánh Lễ và làm những hành động thánh khác có liên hệ trực tiếp với Thánh Lễ, là casula, trừ trường hợp có trù liệu một áo khác mặc trên áo alba và dây stola213. Cũng thế, khi, phù hợp với các luật chữ đỏ, linh mục mặc áo casula, thì ngài đừng quên mang dây stola. Mọi Đấng Bản Quyền phải quan tâm loại bỏ cách làm trái với điều trên.

124. Ngoại trừ vị chủ tế phải luôn luôn mặc áo casula theo màu quy định, Sách Lễ Rôma cho phép các linh mục đồng tế Thánh Lễ “không mặc áo casula, mà chỉ mang dây stola trên áo alba214, khi có lý do chính đáng, như chẳng hạn số quá đông các vị đồng tế và thiếu áo lễ. Tuy nhiên, nếu người ta có thể thấy trước một tình trạng như thế, thì phải hết sức có thể đừng để thiếu áo lễ. Ngoại trừ vị chủ tế, các vị đồng tế có thể mặc, khi cấp thiết, áo casula màu trắng. Về những gì khác, phải tuân giữ các quy luật của các sách phụng vụ.

125. Y phục phụng vụ riêng của thầy phó tế là áo dalmatica mặc ngoài áo alba và dây stola. Để tôn trọng một truyền thống cao quý của Hội Thánh, không nên bỏ áo dalmatica, dù luật cho phép có thể bỏ 215.

126. Phải mạnh mẽ lên án lạm dụng sau đây, đi ngược với các quy định của các sách phụng vụ: dù chỉ có một người giúp tham dự, các thừa tác viên thánh không được phép cử hành Thánh Lễ mà không mặc các y phục phụng vụ, hoặc chỉ mang dây stola trên áo dòng, hoặc tệ hơn trên áo thường 216. Các Đấng Bản Quyền phải sửa chữa trong thời hạn nhanh nhất những lạm dụng thuộc loại này, và phải quan tâm cung cấp cho mọi nhà thờ và mọi nguyện đường nằm dưới quyền tài thẩm của mình, đủ số y phục phụng vụ, được làm đúng theo luật.

127. Trong các sách phụng vụ, có ban một năng quyền đặc biệt cho sử dụng, vào những ngày long trọng, những y phục phụng vụ sang và đặc biệt đẹp hơn, dù không trùng màu của ngày 217. Tuy nhiên, năng quyền này, liên quan cách đặc biệt đến các y phục phụng vụ rất cổ, nhằm mục đích bảo tồn di sản của Hội Thánh, đã được áp dụng cách sai trái vào những y phục phụng vụ mới. Vì vậy người ta không đếm xỉa gì đến tập tục truyền thống, nên đã chế ra những hình dáng và màu sắc, theo các tiêu chuẩn chủ quan, như vậy là làm suy yếu ý nghĩa của năng quyền ấy và làm tổn hại đến truyền thống. Vào những ngày lễ, các y phục thánh màu vàng hoặc bạc có thể thay thế, nếu thấy thích hợp, các màu phụng vụ khác, trừ màu tím và màu đen.

128. Thánh lễ và các cử hành phụng vụ khác là hành động của Chúa Kitô và của dân Chúa có tổ chức theo phẩm trật, được quy định sao cho các thừa tác viên thánh và giáo dân tham gia cách rõ ràng, theo địa vị riêng của họ. Vậy, “các linh mục hiện diện trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể nên thi hành thừa tác vụ của Chức Thánh của mình, ngoại trừ nếu có một lý do chính đáng miễn cho họ làm thế, và do đó họ nên mặc y phục phụng vụ mà đồng tế. Nếu không, họ mang áo surplis trên áo soutane218. Ngoại trừ những trường hợp rất đặc biệt khi có lý do chính đáng, không cho phép họ tham dự Thánh Lễ, mà vẻ bề ngoài như giáo dân.

CHƯƠNG VI: LƯU GIỮ THÁNH THỂ VÀ VIỆC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỄ

1. LƯU GIỮ THÁNH THỂ

129. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong Hy Tế Thánh Lễ đúng thực là nguồn mạch và mục đích của việc thờ phượng dành cho Thánh Thể ngoài Thánh Lễ. Nhưng nếu Thánh Thể được bảo quản sau Thánh Lễ, chính là để cho tín hữu không thể tham dự Thánh Lễ, nhất là những người bệnh và người già, được kết hiệp bằng rước lễ bí tích với Chúa Kitô và hy tế của Người, được hiến tế và hiến dâng trong Thánh Lễ” 219. Đàng khác, việc bảo quản Thánh Thể cũng cho phép thực hành việc tôn thờ Bí Tích cực trọng này và dành cho Bí Tích này sự tôn thờ dành cho Thiên Chúa. Vậy, cần cổ võ một số hình thức tôn thờ, không chỉ có tính cách riêng tư, mà còn công khai và cộng đoàn, được thiết lập hoặc phê chuẩn cách nồng nhiệt bởi chính Hội Thánh 220.

130. “Thể theo những đặc tính kiến trúc của thánh đường và phù hợp với các tập quán địa phương hợp pháp, Thánh Thể phải được bảo quản trong nhà tạm được đặt trong phần nhà thờ đặc biệt cao quý, huy hoàng, rất dễ trông thấy và được trang hoàng đẹp đẽ”, và cũng là nơi an tĩnh “thích hợp cho việc cầu nguyện” 221, có một khoảng không gian trước nhà tạm để có thể đặt vài ghế dài hoặc ghế dựa và bàn quỳ. Đàng khác, phải theo sát mọi chỉ thị của các sách phụng vụ và các quy định của luật 222, đặc biệt nhằm tránh mọi nguy cơ xúc phạm 223.

131. Ngoài những chỉ thị nằm trong Giáo luật khoản 934 # 1, còn cấm lưu giữ Thánh Thể ở một nơi không nằm dưới quyền ảnh hưởng của Giám Mục giáo phận, hoặc một nơi có nguy cơ xúc phạm. Nếu có một trường hợp thuộc loại trên, Giám Mục giáo phận phải lập tức rút quyền cho lưu giữ Thánh Thể, đã được ban trước đó 224.

132. Không ai được mang Thánh Thể về nhà mình hoặc đến một nơi khác, làm ngược lại là trái với quy định của luật. Đàng khác, phải nhớ là sự kiện mang hoặc giữ Mình Thánh với ý đồ phạm thánh, cũng như ném xuống đất là những hành vi nằm trong loại graviora delicta, mà chỉ có Bộ Giáo Lý Đức Tin mới có quyền tha 225.

133. Linh mục hoặc phó tế, hoặc thừa tác viên ngoại thường, khi thừa tác viên thông thường vắng mặt hoặc bị ngăn trở, mang Mình Thánh cho bệnh nhân rước lễ, thì phải đi ngay, nếu có thể, từ nơi lưu giữ Thánh Thể đến nhà bệnh nhân, không nên làm việc gì khác trên đường đi, để tránh mọi nguy cơ xúc phạm và chứng tỏ lòng tôn kính sâu xa đối với Mình Thánh Chúa Kitô. Phải luôn luôn tuân giữ nghi thức trao Mình Thánh cho bệnh nhân, như được ghi trong sách Nghi Thức Rôma 226.

2. VÀI HÌNH THỨC TÔN THỜ THÁNH THỂ NGOÀI THÁNH LỂ

134. “Việc tôn sùng dành cho Thánh Thể ngoài Thánh Lễ có một giá trị khôn lường trong đời sống Hội Thánh. Việc tôn sùng này gắn bó mật thiết với việc cử hành Hy Tế Thánh Thể” 227. Vậy, phải nồng nhiệt cổ võ lòng tôn kính, cả công cộng lẫn riêng tư, đối với Thánh Thể, kể cả ngoài Thánh Lễ, để các tín hữu tôn thờ Chúa Kitô hiện diện đích thực và thật sự 228, Ngài là “vị thượng tế của các thiện ích sẽ đến” 229 và là Đấng Cứu Chuộc thế giới. Vậy các chủ chăn phải khuyến khích, kể cả bằng gương sáng cá nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là trong các buổi chầu Thánh Thể, cũng như việc tôn thờ trước Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể” 230.

135. “Ước gì trong ngày, các tín hữu đừng quên đến viếng Thánh Thể…Vì viếng Thánh Thể là dấu chỉ lòng biết ơn, là bằng chứng tình yêu và cử chỉ tôn thờ phải có đối với Chúa Kitô hiện diện nơi ấy” 231. Thật vậy, như thấy rất rõ trong gương nhiều vị thánh, việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, - được gọi cách đúng đắn là rước lễ thiêng liêng -, kết hiệp mật thiết tín hữu với Chúa Kitô 232. “Trừ khi có lý do nghiêm trọng chống lại, nhà thờ nơi lưu giữ Thánh Thể phải được mở cửa cho tín hữu ít là vài giờ trong một ngày, để họ có thể cầu nguyện trước Thánh Thể” 233.

136. Đấng Bản Quyền phải rất nồng nhiệt khuyến khích việc dân chúng tôn thờ Thánh Thể, trong một thời gian ngắn hoặc dài, hoặc suốt ngày. Thật vậy, trong những năm gần đây, trong khi ở nhiều nơi việc tôn sùng Thánh Thể có một vị trí rộng rãi mỗi ngày và trở nên nguồn mạch vô tận cho việc nên thánh”, thì ở những nơi khác “người ta ghi nhận việc tôn thờ Thánh Thể gần như bị bỏ rơi hoàn toàn” 234.

137. Việc trưng bày Thánh Thể phải luôn luôn được thực hiện theo đúng các quy định của các sách phụng vụ 235. Trước Thánh Thể được lưu giữ hoặc trưng bày, cũng có thể lần hạt Mân Côi, là kinh tuyệt diệu vì “vừa đơn sơ vừa sâu sắc” 236. Tuy nhiên, nếu lần hạt Mân Côi trước Thánh Thể, nhất là khi Thánh Thể được trưng bày, phải làm sáng tỏ bản chất của kinh này là chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô Cứu Thế và kế hoạch cứu rỗi của Chúa Cha toàn năng, nhờ nghe những bài đọc được chọn từ Thánh Kinh 237.

138. Tuy nhiên, không bao giờ được để Thánh Thể trưng bày mà không có người coi ngó, kể cả trong một thời gian rất ngắn. Vậy phải làm sao có vài tín hữu luôn hiện diện, ít là thay phiên nhau, trong những thời gian đã định.

139. Trong những nơi mà Giám Mục giáo phận đặc cử vài thừa tác viên thánh hoặc người khác trưng bày Thánh Thể, các tín hữu có quyền thường xuyên đến viếng Thánh Thể để thờ lạy, và có quyền tham dự vào việc tôn thờ Thánh Thể được trưng bày, ít là vài lần trong năm.

140. Rất khuyến khích Giám Mục giáo phận chỉ định trong những thành phố quan trọng một nhà thờ có việc tôn thờ suốt ngày, tại đó Thánh Lễ được cử hành thường xuyên, và nếu có thể, hằng ngày, nhưng phải ngưng trưng bày Thánh Thể trong lúc cử hành Thánh Lễ 238. Bánh thánh, được trưng bày để tôn thờ, nên được truyền phép trong Thánh Lễ ngay trước lúc tôn thờ, và được đặt trong hào quang, trên bàn thờ, sau lúc rước lễ 239.

141. Giám Mục giáo phận phải nhìn nhận và khuyến khích hết sức có thể quyền của tín hữu được thành lập các hội nhằm thực hành việc tôn thờ Thánh Thể, kể cả suốt ngày. Khi những hội thuộc loại này đạt tầm mức quốc tế, thì Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích có bổn phận biên soạn hoặc phê chuẩn quy chế của chúng 240.

3. KIỆU THÁNH THỂ VÀ HỘI NGHỊ THÁNH THỂ

142. “Giám mục giáo phận có quyền thiết lập những quy tắc về việc tham dự các cuộc kiệu và về cách thức diễn tiến” 241 và cổ võ việc tôn thờ của tín hữu.

143. Nơi nào Giám Mục giáo phận xét là có thể làm được, thì sẽ tổ chức cuộc rước trên các đường phố, nhất là vào ngày lễ trọng kính Mình Máu Chúa Kitô 242, để chứng tỏ cách công khai lòng tôn kính đối với Bí tích Thánh Thể”. Thực vậy, “sự tham dự sốt sắng của tín hữu vào cuộc rước Mình Thánh vào ngày lễ trọng kính Mình Máu Chúa Kitô là một ân sủng của Chúa làm cho những người tham dự hằng năm tràn đầy niềm vui” 243.

144. Dù cho có vài nơi không thể tổ chức kiệu Thánh Thể, vẫn cần thiết duy trì truyền thống đó. Nên tìm ra những cách thức mới để tổ chức kiệu trong những hoàn cảnh hiện nay, chẳng hạn trong khuôn viên các đền thờ, những địa điểm thuộc về Hội Thánh, hoặc trong các công viên, với sự cho phép của chính quyền.

145. Phải nhìn nhận giá trị lớn của các Đại Hội Thánh Thể về phương diện lợi ích mục vụ. Các Đại Hội Thánh Thể “phải là dấu chỉ chân thật về đức tin và đức ái” 244. Chúng phải được chuẩn bị cẩn thận và diễn tiến theo các quy luật đã ban hành 245, để tín hữu có thể nhận lãnh không ngừng các hoa quả của ơn cứu chuộc, khi tôn kính các mầu nhiệm Mình Máu Con Thiên Chúa 246.

CHƯƠNG VII: CÁC PHẬN VỤ NGOẠI THƯỜNG CỦA GIÁO DÂN

146. Chức tư tế thừa tác tuyệt đối không thể thay thế được. Thật vậy, nếu không có linh mục nơi một cộng đoàn, cộng đoàn ấy sẽ thiếu việc thi hành phận vụ bí tích của Chúa Kitô, Đầu và Mục Tử, là phận vụ thiết yếu cho chính đời sống của cộng đoàn Hội Thánh 247. Trên thực tế, “chỉ có linh mục được phong chức cách thành sự là thừa tác viên cho thể thực hiện, in persona Christi, Bí tích Thánh Thể” 248.

147. Tuy nhiên ở nơi đâu mà nhu cầu của Hội Thánh đòi hỏi, thì, do thiếu thừa tác viên thánh, giáo dân có thể thế chỗ để làm vài phận vụ phụng vụ, thể theo các quy định của luật 249. Các tín hữu này, được kêu gọi và đặc cử nhằm thi hành vài phận vụ rõ rệt, có tầm quan trọng ít nhiều, thì được ơn Chúa nâng đỡ. Ngày nay nhiều giáo dân đã và đang phục vụ như thế cách quảng đại, nhất là tại các xứ truyền giáo, nơi mà Hội Thánh chưa lan rộng hoặc ở trong những hoàn cảnh bị bách hại 250, nhưng cũng tại những miền khác trên thế giới bị ảnh hưởng bởi nạn thiếu linh mục và phó tế.

148. Đặc biệt, phải coi là rất quan trọng việc lập ra các giáo lý viên, là những người đã bỏ ra nhiều công sức lớn để tiếp tục mang lại hôm nay, cũng như trong quá khứ, một trợ giúp đặc biệt và tuyệt đối cần thiết cho việc mở rộng đức tin và Hội Thánh 251.

149. Gần đây trong vài giáo phận đã được phúc âm hoá lâu đời có lập ra loại giáo dân, gọi là “trợ tá mục vụ”. Không thể chối cãi là rất nhiều người trong số họ đã hành động vì lợi ích của Hội Thánh, vì tạo dễ dàng cho hoạt động mục vụ của Giám Mục, linh mục và phó tế. Tuy nhiên, phải chú ý đừng để phận vụ ấy quá giống với thừa tác vụ của các giáo sĩ. Nói cách khác, phải coi chừng cẩn thận đừng để các “trợ tá mục vụ” đảm trách những phận vụ thuộc cách chuyên biệt về thừa tác vụ của các thừa tác viên thánh.

150. Hoạt động của trợ tá mục vụ phải có mục đích tạo dễ dàng cho thừa tác vụ của linh mục và phó tế, khơi dậy các ơn gọi làm linh mục và phó tế, và, trong mỗi cộng đoàn, nhiệt thành chuẩn bị, theo đúng các quy định của luật, giáo dân đảm nhận những nhiệm vụ phụng vụ khác nhau theo tính đa dạng các đặc sủng.

151. Trong buổi cử hành phụng vụ, người ta chỉ nhờ đến sự trợ giúp của các thừa tác viên ngoại thường trong trường hợp thật cần thiết. Thật vậy, sự trợ giúp này không được dự trù để nói lên sự tham gia đầy đủ hơn của giáo dân, nhưng tự bản chất, nó có tính cách bổ sung và tạm thời 252. Tuy nhiên, dù nhờ đến sự phục vụ của các thừa tác viên ngoại thường là điều cần thiết, vẫn phải gia tăng lời cầu nguyện cách đặc biệt và kiên trì, xin Chúa mau sai đến một linh mục đến phục vụ cộng đoàn và khơi dậy nhiều ơn gọi lãnh nhận các Chức Thánh 253.

152. Thứ đến, những phận vụ ấy, chỉ hoàn toàn có tính cách bổ sung, không được tạo nên một nguyên cớ để làm biến chất chính thừa tác vụ của linh mục, đến nỗi các linh mục sao nhãng cử hành Thánh Lễ cho dân chúng được giao phó cho mình, lơ là đích thân chăm sóc bệnh nhân, không tự mình ban phép rửa cho trẻ nhỏ, tham dự các lễ hôn phối và cử hành tang lễ, là những lãnh vực thuộc về thừa tác vụ của linh mục, với sự trợ giúp của phó tế. Vậy, trong các giáo xứ, linh mục phải coi chừng đừng bao giờ thay vì làm những phận vụ mục vụ của riêng mình lại làm những phận vụ của phó tế hoặc của giáo dân, để tránh gây lẫn lộn về những phận vụ chuyên biệt của từng thừa tác vụ.

153. Hơn nữa, không bao giờ cho phép giáo dân đảm trách những phận vụ của phó tế hay linh mục, hoặc mặc y phục thuộc riêng phó tế và linh mục, cũng như những y phục khác tương tự.

1. THỪA TÁC VIÊN NGOẠI THƯỜNG CHO RƯỚC LỄ

154. Như đã nhắc rồi, “chỉ một mình linh mục được phong chức thành sự là thừa tác viện có thể thực hiện Bí tích Thánh Thể in persona Christi254. Vậy, kiểu nói “thừa tác viên Bí tích Thánh Thể” chỉ có thể gán cách thích đáng cho linh mục mà thôi. Cũng vậy, vì Giám Mục, linh mục và phó tế đã lãnh nhận Chức Thánh, nên các ngài là thừa tác viên thông thường cho rước lễ 255. Bởi đó, việc cho giáo dân rước lễ trong buổi cử hành Thánh Lễ thuộc về các ngài. Làm như thế, phận vụ thừa tác của các ngài được biểu lộ cách thích đáng và đầy đủ, và dấu chỉ của bí tích được thực hiện.

155. Ngoài các thừa tác viên thông thường, còn có thầy giúp lễ đã lãnh tác vụ, mà thể theo tác vụ đã lãnh, thầy là thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, kể cả ngoài buổi cử hành Thánh Lễ. Đàng khác, khi có lý do thật cấp thiết đòi hỏi, Giám Mục giáo phận có thể dùng công thức chúc lành thích hợp mà chỉ định một giáo dân với tính cách là thừa tác viên ngoại thường, ad actum hoặc ad tempus, theo các quy định của luật 256, để cho rước lễ. Tuy nhiên, không cần thiết hành vi chỉ định ấy phải mang hình thức phụng vụ; nhưng nếu có hình thức phụng vụ, thì hình thức này không bao giờ được coi như tương tự với phong chức thánh. Việc cho phép ad actum chỉ được linh mục chủ tế ban trong những trường hợp đặc biệt và không thể dự kiến 257.

156. Phận vụ ấy phải được hiểu theo nghĩa chặt, đúng như cách gọi thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ, chứ không phải “thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ”, cũng không phải “thừa tác viên ngoại thường của Bí tích Thánh Thể”, cũng không phải “thừa tác viên đặc biệt của Bí tích Thánh Thể”. Thật vậy, những kiểu gọi trên mở rộng ý nghĩa của phận vụ ấy một cách không thích hợp.

157. Nếu các thừa tác viên thánh hiện diện trong buổi cử hành khá đông, kể cả để cho rước lễ, thì không được phép để các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Trong những trường hợp thuộc loại này, những ai có quyền cho rước lễ, thì không được thi hành quyền này. Phải mạnh mẽ lên án thái độ của các linh mục hiện diện trong buổi cử hành mà từ chối cho rước lễ, và sai giáo dân làm việc ấy 258.

158. Thật vậy, thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ chỉ có thể cho rước lễ trong trường hợp thiếu linh mục hoặc phó tế, khi linh mục bị ngăn trở vì bệnh tật, tuổi già hoặc một lý do nghiêm trọng khác, hoặc khi số tín hữu rước lễ quá đông, có nguy cơ kéo dài quá đáng buổi cử hành Thánh Lễ 259. Nếu chỉ kéo dài thêm một chút buổi cử hành, tính theo các tập quán và bối cảnh văn hoá của địa phương, thì chưa đủ lý do thoả đáng.

159. Tuyệt đối không cho phép thừa tác việc ngoại thường cho rước lễ uỷ quyền ban Mình Thánh cho một người khác, như chẳng hạn cho cha hoặc mẹ, hoặc người phối ngẫu, hoặc con cái của người bệnh cần rước lễ.

160. Trong lãnh vực này, yêu cầu Giám Mục giáo phận xem xét lại cách thực hành của những năm vừa qua, và sửa chữa tuỳ trường hợp, hoặc định rõ hơn những quy tắc hành động. Ở những nơi mà, vì cấp thiết thực sự, đã lan rộng việc chỉ định những thừa tác viên ngoại thường như thế, thì Giám Mục giáo phận phải công bố những quy định, qua đó ngài theo truyền thống của Hội Thánh mà đưa ra quy tắc cho việc thi hành phận vụ ấy, theo các quy định của luật.

2. GIẢNG

161. Như đã nói, bài giảng trong Thánh Lễ, do bản chất và tầm quan trọng của nó, được dành cho linh mục hoặc phó tế 260. Về những hình thức giảng thuyết khác, nếu thấy cần thiết trong những hoàn cảnh đặc biệt hoặc thấy ích lợi trong những trường hợp đặc biệt, thì giáo dân có thể được cho giảng trong nhà thờ hay nhà nguyện, ngoài Thánh Lễ, theo các quy định của luật 261. Điều này chỉ có thể xảy ra trong trường hợp cần bổ khuyết các thừa tác viên thánh vì quá thiếu những người này ở vài nơi. Vậy, không được phép để cho một trường hợp như thế, hoàn toàn ngoại lệ, trở lên một cách làm thường xuyên, cũng như coi đó là cách thăng tiến giáo dân 262. Hơn nữa, mọi người phải nhớ rằng năng quyền ban phép ấy chỉ thuộc về Đấng Bản Quyền mà thôi, và luôn luôn ad actum, chứ không thuộc về ai khác, kể cả linh mục và phó tế.

3. NHỮNG CỬ HÀNH ĐẶC BIỆT KHI VẮNG LINH MỤC

162. Ngày được gọi là “Chúa nhật”, Hội Thánh trung thành tập họp để cử hành lễ tưởng niệm cuộc phục sinh của Chúa và toàn bộ mầu nhiệm vượt qua, đặc biệt qua việc cử hành Thánh Lễ 263. Thật vậy, “không cộng đoàn Kitô hữu nào được xây dựng mà không lấy việc cử hành Bí tích Thánh Thể làm gốc rễ và trung tâm của mình” 264. Bởi vậy, dân Kitô giáo có quyền có Bí tích Thánh Thể được cử hành cho họ, vào Chúa nhật và lễ buộc, cũng như vào các ngày lễ quan trọng, và ngay cả mỗi ngày, nếu có thể. Do đó, nếu việc cử hành Thánh Lễ Chúa nhật trong một giáo xứ hoặc một cộng đoàn tín hữu khác gặp khó khăn, thì Giám Mục giáo phận, cùng với linh mục đoàn 265, phải tìm ra giải đáp cho tình trạng ấy. Trong số các giải pháp có thể được ghi nhận, sau đây là những giải pháp đáng coi trọng: nhờ những linh mục không mắc bận đến cử hành Thánh Lễ, hoặc bảo tín hữu đi đến một nhà thờ gần đó để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể 266.

163. Mọi linh mục, vì đã được trao phó chức tư tế và Bí tích Thánh Thể “nhằm lợi ích” của người khác 267, nên phải nhớ rằng họ có bổn phận giúp cho mọi tín hữu chu toàn điều răn tham dự Thánh Lễ Chúa nhật 268. Về phía mình, giáo dân có quyền đòi linh mục cử hành Thánh Lễ cho dân chúng, nếu không có sự bất khả thật sự, hoặc xin một linh mục khác cử hành, nếu họ không còn cách nào khác chu toàn điều răn tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật hoặc các ngày lễ buộc khác.

164. “Nếu, vì không có thừa tác viên thánh hoặc vì một lý do nghiêm trọng khác, mà không thể tham dự việc cử hành Thánh Thể” 269, thì dân Kitô giáo có quyền yêu cầu Giám Mục giáo phận lo cho chính cộng đoàn vào ngày Chúa nhật có một buổi cử hành, được tổ chức dưới quyền ngài và theo các quy định của Hội Thánh. Tuy nhiên, các cử hành ngày Chúa nhật đặc biệt thuộc loại này phải luôn luôn được coi như có tính chất hoàn toàn ngoại thường. Bởi vậy, tất cả những ai được Giám Mục giáo phận chỉ định để thi hành một phận vụ trong những buổi cử hành ấy, dù họ là phó tế hoặc giáo dân, thì “phải quan tâm duy trì sống động trong cộng đoàn lòng “khao khát” Bí tích Thánh Thể, khiến không bao giờ bỏ qua cơ hội nào để có buổi cử hành Thánh Lễ, bằng cách lợi dụng sự có mặt tình cờ của một linh mục, miễn là vị này không bị luật Hội Thánh cấm không cho cử hành Thánh Lễ” 270.

165. Phải cẩn thận tránh mọi hình thức lẫn lộn giữa các buổi tụ họp cầu nguyện thuộc loại trên và buổi cử hành Bí tích Thánh Thể 271. Do đó, các Giám Mục giáo phận có nhiệm vụ lượng định cách khôn ngoan xem có nên cho rước lễ trong những buổi tụ họp đó không. Để bảo đảm có sự phối hợp rộng hơn trong lãnh vực này, vấn đề trên nên được giải quyết ở cấp Hội Đồng Giám Mục, để đạt đến một giải pháp, được xác nhận bởi Tông Toà, nghĩa là bởi Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích. Hơn nữa, khi vắng linh mục và phó tế, nên phân phối các phần của buổi cử hành cho nhiều giáo dân hơn là để chỉ một giáo dân điều khiển toàn bộ buổi cử hành. Không bao giờ được nói về một giáo dân là người ấy “chủ toạ” buổi cử hành.

166. Cũng thế, Giám Mục giáo phận, - chỉ mình ngài có quyền quyết định trong lãnh vực này -, không nên cho phép dễ dàng các buổi cử hành thuộc loại trên được diễn ra trong những ngày trong tuần, nhất là nếu có cho rước lễ. Điều này nhắm đến những nơi mà Chúa nhật trước hoặc sau, Thánh Lễ đã có thể hoặc sẽ có thể được cử hành. Tha thiết yêu cầu các linh mục, tuỳ khả năng, cử hành Thánh Lễ cho dân chúng mỗi ngày trong một trong các nhà thờ đã được trao phó cho họ.

167. “Cũng thế, không được tính chuyện thay thế Thánh Lễ Chúa nhật bằng những cử hành đại kết Lời Chúa, hoặc bằng những buổi gặp nhau cầu nguyện với các Kitô hữu thuộc [….] các Hội Thánh khác, hoặc bằng việc tham dự các lễ nghi phụng vụ của họ 272. Hơn nữa, nếu, vì một sự cấp thiết nghiêm trọng, Giám Mục giáo phận đã cho phép ad actum các người công giáo tham dự một buổi gặp gỡ cầu nguyện thuộc loại trên, thì các mục tử phải lo đừng để tín hữu công giáo hoang mang về sự cần thiết phải tham dự Thánh Lễ buộc, vào một giờ khác trong ngày, kể cả trong những trường hợp như thế 273.

4. CÁC GIÁO SĨ HỒI TỤC

168. “Cấm giáo sĩ hồi tục theo các quy định của luật thi hành quyền thánh chức” 274. Vì vậy, vị ấy không được phép cử hành các bí tích vì bất cứ lý do gì, ngoại trừ trường hợp biệt lệ được luật trù liệu 275. Cũng thế, tín hữu không được phép xin vị ấy cử hành, nếu thiếu nguyên do chính đáng được xác định bởi khoản giáo luật 1335 276. Hơn nữa, tuyệt đối cấm những vị ấy giảng 277, hoặc đảm trách một phận vụ trong buổi cử hành Phụng Vụ Thánh, để khỏi gieo hoang mang cho tín hữu, cũng như làm lu mờ chân lý.

CHƯƠNG VIII: CÁC PHƯƠNG DƯỢC

169. Khi xảy ra một lạm dụng trong việc cử hành Phụng Vụ Thánh, phải nhìn nhận rằng đó là làm sai lạc phụng vụ công giáo. Thánh Tôma đã viết: “Ai dâng lên Thiên Chúa, nhân danh Hội Thánh, một việc thờ phụng trái với các hình thức mà Hội Thánh đã thiết lập do quyền bính đến từ Thiên Chúa và cũng Hội Thánh này đang thực hiện, thì phạm tội làm sai lạc” 278.

170. Để chữa trị các lạm dụng ấy, “nhiệm vụ cấp bách nhất là huấn luyện dân Chúa, cả mục tử lẫn tín hữu 279, về Thánh Kinh và phụng vụ”, hầu đức tin và kỷ luật của Hội Thánh liên quan đến Phụng Vụ Thánh, được trình bày cách đúng đắn và được thông hiểu. Tuy nhiên, nơi nào mà các lạm dụng vẫn kéo dài, thì phải tiến hành theo các quy định của luật, để bảo toàn di sản thiêng liêng và các quyền lợi của Hội Thánh, nhờ mọi phương tiện hợp pháp.

171. Trong số các lạm dụng khác nhau, có một số tạo thành cách khách quan các graviora delicta (những vi phạm nghiêm trọng nhất), một số khác tạo thành các vụ nghiêm trọng, số khác nữa cũng phải tránh và sửa chữa cẩn thận. Thể theo những gì đã bàn đến trong Chương I của Huấn Thị này, phải lưu tâm đến những điều sau đây.

1. CÁC GRAVIORA DELICTA

172. Các graviora delicta nghịch lại sự thánh thiện của Hy Tế cực trọng và bí tích Thánh Thể phải được đối xử theo “Các quy định liên quan đến các graviora delicta dành riêng cho Bộ Giáo Lý Đức Tin” 280, đó là:

a/ hành vi mang đi hoặc giữ Mình Máu Thánh nhằm mục đích phạm thánh, hoặc ném Mình Máu Chúa xuống đất 281;

b/ sự kiện không phải là linh mục mà dám cử hành phụng vụ Hy Tế Thánh Thể, hoặc giả vờ cử hành 282;

c/ đồng tế Hy Tế Thánh Thể, dù đã có cấm chỉ, với các thừa tác viên của các Cộng đoàn giáo hội không có việc kế thừa các tông đồ và không nhìn nhận phẩm chất bí tích của việc truyền chức linh mục 283;

d/ truyền phép nhằm mục đích phạm thánh chỉ bánh hoặc chỉ rượu trong buổi cử hành Bí tích Thánh Thể, hoặc cả hai ngoài buổi cử hành Bí tích Thánh Thể 284.

2. CÁC VỤ NGHIÊM TRỌNG

173. Tính nghiêm trọng của một vụ việc được lượng định dựa trên nền tảng giáo lý chung của Hội Thánh và theo những quy định mà Hội Thánh đã thiết lập. Trong số các vụ nghiêm trọng, luôn luôn kể đến cách khách quan những vụ gây nguy hiểm cho tính thành sự và phẩm giá của Bí tích cực trọng Thánh Thể, nghĩa là những vụ đi ngược lại với các quy định được trình bày trên đây trong các số 48-52, 56, 76-77, 79, 91-92, 94, 96, 101-102, 104, 106, 109, 111, 115, 117, 126, 131-133, 138, 153 và 168. Cũng phải lưu tâm đến những quy định khác của Bộ Giáo Luật, nhất là những quy định nằm trong các khoảng 1364, 1369, 1373, 1376, 1380, 1384, 1385, 1386 và 1398.

3. NHỮNG LẠM DỤNG KHÁC

174. Hơn nữa, những hành vi nghịch với những gì được nêu ra trong những đoạn khác của Huấn Thị này và trong những quy tắc được thiết lập bởi luật, không được coi nhẹ, nhưng phải được kể vào số những lạm dụng cần phải tránh và phải sửa chữa cẩn thận.

175. Hiển nhiên là tất cả những gì được trình bày trong Huấn Thị này không kể ra hết mọi vi phạm đối với Hội Thánh và kỷ luật của Hội Thánh. Muốn biết rõ mọi vi phạm, phải tham khảo các khoản giáo luật, các luật phụng vụ và các quy tắc khác của Hội Thánh, giáo lý của Huấn Quyền hoặc truyền thống đúng đắn. Ở đâu xảy ra một sai trái nào đó, thì phải sửa chữa theo các quy tắc của luật.

4. GIÁM MỤC GIÁO PHẬN

176. “Vì Giám Mục giáo phận là người phân phát chính các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài nên nổ lực hết sức để cho các tín hữu mà ngài có nhiệm vụ coi sóc, lớn lên trong ân sủng nhờ việc cử hành các bí tích, hiểu biết và sống mầu nhiệm phục sinh” 285. Vậy ngài có trách nhiệm, “trong giới hạn của thẩm quyền ngài, đưa ra các luật lệ trong lãnh vực phụng vụ, mà mọi người buộc phải tuân hành” 286.

177. “Vì Giám Mục phải bênh vực sự hiệp nhất của toàn thể Hội Thánh, ngài buộc phải cổ võ kỷ luật chung cho toàn Hội Thánh và do đó ngài buộc phải yêu cầu tuân giữ tất cả các luật của Hội Thánh. Ngài phải để ý sao cho các lạm dụng đừng len lỏi vào trong kỷ luật của Hội Thánh, nhất là những gì liên quan đến thừa tác vụ lời, việc cử hành các bí tích và phụ tích, việc thờ phượng Thiên Chúa và các thánh” 287.

178. Do đó, mỗi lần Đấng Bản Quyền của giáo phận hoặc của một dòng tu hoặc của một Hội hoạt động tông đồ biết, dù mới là có lẽ thực, về một lỗi phạm hoặc một lạm dụng nghịch với Bí tích Thánh Thể cực trọng, thì phải thận trọng điều tra, tự mình hoặc nhờ một giáo sĩ khác có khả năng, về các sự kiện, hoàn cảnh, cũng như về kẻ chịu trách nhiệm về hành vi ấy.

179. Những tội phạm nghịch lại đức tin, cũng như các graviora delicta phạm khi cử hành Bí tích Thánh Thể và những bí tích khác, phải lập tức được trình báo lên Bộ Giáo Lý Đức Tin. Bộ này sẽ phán đoán, và nếu đúng có trường hợp như thế, sẽ tuyên bố hoặc ra những hình phạt giáo luật theo các quy định của luật chung hoặc luật riêng” 288.

180. Mặt khác, Đấng Bản Quyền phải tiến hành theo các quy định của giáo luật, phải áp dụng các hình phạt giáo luật, nếu cần, và phải nhớ cách riêng đến Giáo luật khoản 1326. Nếu xảy ra những hành vi nghiêm trọng, ngài phải báo cáo lên Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích.

5. TOÀ THÁNH

181. Mỗi lần Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích biết, dù mới là có lẽ thực, về một tội phạm hoặc một lạm dụng nghịch lại Bí tích cực trọng Thánh Thể, Bộ thông báo cho Đấng Bản Quyền, để vị này cho điều tra về sự kiện. Nếu hành vi lỗi phạm tỏ ra là nghiêm trọng, Đấng Bản Quyền phải gởi sớm hết sức cho Bộ này một bản sao về các tài liệu liên quan đến cuộc điều tra đã làm, và hình phạt đã bắt chịu, nếu có.

182. Trong những trường hợp khó khăn nhất, Đấng Bản Quyền phải nghĩ đến lợi ích của Hội Thánh phổ quát, mà ngài chia sẻ sự quan tâm do Chức Thánh đã lãnh nhận, nên ngài không được khinh xuất cứu xét vấn đề, sau khi đã tham khảo Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích. Về phần mình, Bộ này, do những năng quyền được Đức Giáo Hoàng ban cho, phải giúp đỡ Đấng Bản Quyền, tuỳ trường hợp, bằng cách ban cho vị này những phép chuẩn cần thiết 289, hoặc truyền đạt những huấn thị và quy định mà vị này phải áp dụng cách nghiêm túc.

6. NHỮNG TỐ GIÁC LIÊN QUAN ĐẾN CÁC LẠM DỤNG PHỤNG VỤ

183. Tuỳ theo khả năng của mình, mọi người có bổn phận chú ý đặc biệt sao cho Bí Tích cực trọng Thánh Thể được bảo vệ chống lại mọi hành vi bất kính và mọi thực hành lệch lạc, và sao cho mọi lạm dụng được hoàn toàn sửa chữa. Bổn phận này, rất quan trọng, được giao phó cho tất cả và từng phần tử của Hội Thánh, cho nên phải được chu toàn mà không thiên tư vị nể ai.

184. Mọi người công giáo, dù là linh mục, phó tế hay giáo dân, đều có quyền tố giác một lạm dụng phụng vụ lên Giám Mục giáo phận hoặc Đấng Bản Quyền tương ứng theo luật, hoặc lên Toà Thánh vì Đức Giáo Hoàng có quyền tối thượng 290. Tuy nhiên, lời tố giác nên trước tiên được trình bày cho Giám Mục giáo phận. Điều này phải luôn luôn được thực hiện trong tinh thần tôn trọng sự thật và đức bác ái.

KẾT LUẬN

185. “Đối lại với những mầm phân tán con người với nhau, mà theo kinh nghiệm thường ngày, đã ăn rễ rất sâu trong nhân loại vì tội lỗi, là lực phát sinh sự hiệp nhất của thân thể Chúa Kitô. Khi làm nên Hội Thánh, Bí tích Thánh Thể cũng kiến tạo nhân loại thành cộng đoàn” 281. Chính vì thế, Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích hy vọng rằng, nhờ áp dụng nghiêm túc những quy tắc được nhắc lại trong Huấn Thị này, hoạt động của Bí tích cực trọng Thánh Thể gặp ít trở ngại đến từ sự yếu đuối con người hơn, và rằng, nếu ta thành công loại bỏ mọi lạm dụng và trừ khử mọi việc làm bất hợp pháp, thì nhờ lời bầu cử của Đức Nữ Trinh Maria, “người phụ nữ Thánh Thể” 292, sự hiện diện cứu độ của Chúa Kitô sẽ toả sáng trên mọi người trong Bí tích Mình và Máu Người.

186. Mọi tín hữu của Chúa Kitô phải tham dự, hết sức có thể, cách đầy đủ, ý thức và tích cực vào Bí tích Thánh Thể 293, họ phải tôn kính Bí tích này với hết tấm lòng trong những hành vi sùng kính và trong đời sống. Các Giám Mục, linh mục và phó tế, khi thi hành thừa tác vụ thánh của mình, phải tự vấn lương tâm về tính xác thực và tính trung thành của những hành động mà các ngài thực hiện nhân danh Chúa Kitô và Hội Thánh trong buổi cử hành Phụng Vụ thánh. Mỗi thừa tác viên thánh phải tự vấn nghiêm túc xem các ngài có tôn trọng các quyền của giáo dân đã tin tưởng phó thác mình và phó thác con cái mình cho thừa tác vụ của các ngài với xác tín rằng tất cả các ngài thi hành cách nghiêm túc vì lợi ích của tín hữu những phận vụ mà Hội Thánh, do sự uỷ nhiệm của Chúa Kitô, có ý thực hiện khi cử hành Phụng Vụ thánh 294. Thật vậy, mỗi người phải luôn luôn nhớ mình là người phục vụ Phụng Vụ thánh 295.

Bất kể mọi điều trái nghịch.

Huấn Thị này được soạn thảo bởi Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích, theo sự uỷ nhiệm của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, và với sự cộng tác của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Huấn Thị này được Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II phê chuẩn ngày 19 tháng 3 năm 2004, vào ngày lễ trọng kính thánh Giuse. Đức Giáo Hoàng đã truyền Huấn Thị này được công bố và tuân giữ bởi mọi người liên hệ.

Rôma, từ trụ sở Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Bí Tích, ngày 25 tháng 3 năm 2004, vào ngày lễ trọng Truyền Tin.

Hồng y Francis ARINZE
Bộ Trưởng

+ Domenico SORRENTINO

Tổng Giám Mục Thư Ký

CHÚ THÍCH

1 Cf. Missale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum, editio typica tertia, diei 20 aprilis 2000, Typis Vaticanis, 2002, Missa votiva de Dei misericordia, oratio super oblata, p. 1159.

2 Cf. 1 Co 11, 26; Missale Romanum, Prex Eucharistica, acclamatio post consecrationem, p. 576; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, 17/4/2003, nn. 5, 11, 14, 18: AAS 95 (2003) pp. 436, 440-441, 442, 445.

3 Cf. Is 10, 33; 51, 22; Missale Romanum, In sollemnitate Domini nostri Iesu Christi, universorum Regis, Praefatio,p. 499.

4 Cf. 1 Co 5, 7; Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục Presbyterorum ordinis, 7/12/1965, n. 5; Jean-Paul II, Tông huấn Ecclesia in Europa, 28/6/2003, n. 75: AAS 95 (2003) pp. 649-719, ở đây p. 693.

5 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 21/11/1964, n. 11.

6 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, 17/4/2003, n. 21: AAS 95 (2003) p. 447.

7 Cf. Ibidem : AAS 95 (2003) pp. 433-475.

8 Cf. Ibidem, n. 52: AAS 95 (2003) p. 468.

9 Cf. Ibidem. br> 10 Ibidem, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

11 Ibidem; cf. Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, 4/12/ 1988, nn. 12-13: AAS 81 (1989) pp. 909-910; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, 4/12/1963, n. 48.

12 Missale Romanum, Prex Eucharistica III,p. 588; cf. 1 Co 12, 12-13; Ep 4, 4.

13 Cf. Ph 2, 5.

14 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

15 Ibidem, n. 6: AAS 95 (2003) p. 437; cf. Lc 24, 31.

16 Cf. Rm 1, 20.

17 Cf. Missale Romanum, Praefatio I de Passione Domini, p. 528.

18 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Veritatis Splendor, 6/8/1993, n. 35: AAS 85 (1993) pp. 1161-1162; Homlie au Camden Yards de Baltimore, 9/10/ 1995, n. 7: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XVII, 2 (1995), Librairie ditrice Vaticane, 1998, p. 788.

19 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

20 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 24; cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Varietates legitimae, 25/1/1994, nn. 19 et 23: AAS 87 (1995) pp. 295-296, 297.

21 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 33.

22 Cf. S. Irne, Adversus Haereses, III, 2: SCh ., 211, 24-31; S. Augustin, Epistola ad Ianuarium : 54, I: PL 33, 200: «Illa autem quae non scripta, sed tradita custodimus, quae quidem toto terrarum orbe servantur, datur intellegi vel ab ipsis Apostolis, vel plenariis conciliis, quorum est in Ecclesia saluberrima auctoritas, commendata atque statuta retineri.»; Jean-Paul II, Thông điệp Redemptoris missio, 7/12/1990, nn. 53-54: AAS 83 (1991) pp. 300-302; bộ giáo lý đức tin,, Lettre aux vques de l’glise catholique sur certains aspects de l’glise comprise comme communion, Communionis notio, 28/5/1992, nn. 7-10: AAS 85 (1993) pp. 842-844; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Varietates legitimae, n. 26: AAS 87 (1995) pp. 298-299.

23 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 21.

24 Cf. Pie XII, Tông hiến Sacramentum Ordinis, 30/11/1947: AAS 40 (1948) p. 5; bộ giáo lý đức tin,, Tuyên bố Inter insigniores, 15/10/1976, IV partie: AAS 69 (1977) pp. 107-108; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Varietates legitimae, n. 25: AAS 87 (1995) p. 298.

25 Cf. Pie XII, Thông điệp Mediator Dei, 20/11/1947: AAS 39 (1947) p. 540.

26 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Inaestimabile donum, 3/4/1980, AAS 72 (1980) p. 333.

27 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003) p. 468.

28 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, nn. 4, 38; Sắc lệnh về các Giáo Hội đông phương công giáo Orientalium Ecclesiarum, 21/11/1964, nn. 1, 2, 6; PAUL VI, Tông hiến Missale Romanum : AAS 61 (1969) pp. 217-222; Missale Romanum: Institutio Generalis, n. 399; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Liturgiam authenticam, 28/3/2001, n. 4: AAS 93 (2001) pp. 685-726, ở đây p. 686.

29 Cf. Jean-Paul II, Tông huấn Ecclesia in Europa, n. 72: AAS 95 (2003) p. 692.

30 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 23: AAS 95 (2003) pp. 448-449: THÁNH BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, 25/5/1967, n. 6: AAS 59 (1967) p. 545.

31 Cf. THÁNH BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum : AAS 72 (1980) pp. 332-333.

32 Cf. 1 Co 11, 17-34; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003) pp. 467-468.

33 Cf. Bộ Giáo Luật, 25/1/1983, can. 1752.

34 Công đồng chung Vatican II Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 22 § 1. Cf. Bộ Giáo Luật, can. 838 § 1.

35 Bộ Giáo Luật, can. 331; cf. CÔNG ĐỒNG CHUNG Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, n. 22.

36 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 838 § 2.

37 Jean-Paul II, Tông hiến Pastor bonus, 28/6/1988: AAS 80 (1988) pp. 841-924; ở đây art. 62, 63 et 66, pp. 876-877.

38 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 52: AAS 95 (2003) p. 468.

39 Cf. Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục tử của các giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 28/10/1965, n. 15; cf. Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 41; Bộ Giáo Luật, can. 387.

40 Lời nguyện phong chức giám mục trong nghi lễ byzantin: Euchologion to mega, Rome, 1873, p. 139.

41 Cf. S. Ignace d’Antioche, Ad Smyrn. 8, 1: ed. F.X. Funk, I, p. 282.

42 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, n. 26; cf. THÁNH BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 7: AAS 59 (1967) p. 545; cf. Jean-Paul II, Tông huấn Pastores gregis, 16/10/2003, nn. 32-41: L’Osservatore Romano, 17/10/ 2003, pp. 6-8.

43 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 41; cf. S. Ignace d’Antioche, Ad Magn. 7; Ad Philad. 4; Ad Smyrn. 8: ed. F.X. FUNK, I, pp. 236, 266, 281; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 22; cf. Bộ Giáo Luật, can. 389.

44 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 26.

45 Bộ Giáo Luật, Can. 838 § 4.

46 Cf. Consilium pour l’application de la Constitution sur la Liturgie, Dubium: Notitiae 1 (1965) p. 254.

47 Cf. Ac 20, 28; Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, nn. 21 et 27; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục tử của các giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, n. 3.

48 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, 5/7/ 1970: AAS 62 (1970) p. 694.

49 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 21; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục tử của các giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, n. 3.

50 Cf. Caeremoniale Episcoporum, ex decreto sacrosanci Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Ioannis Pauli Pp. II promulgatum, editio typica, 14/9/1984, Typis Polyglottis Vaticanis, 1985, n. 10.

51 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 387.

52 Cf. ibidem, n. 22.

53 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes : AAS 62 (1970) p. 694.

54 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 27; cf. 2 Co 4, 15.

55 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 397 § 1; 678 § 1.

56 Cf. ibidem, can. 683 § 1.

57 Cf. ibidem, can. 392.

58 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, n. 21: AAS 81 (1989) p. 917; CÔNG ĐỒNG CHUNG Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, nn. 45-46; Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 562.

59 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, n. 20: AAS 81 (1989) p. 916.

60 Cf. ibidem.

61 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 44; BỘ GIÁM MỤC, Lettre aux Prsidents des Confrences des vques, envoye aussi au nom de la Congrgation pour l’vanglisation des Peuples, 21/6/1999, n. 9: AAS 91 (1999) p. 999.

62 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 12: AAS 62 (1970) pp. 692-704, ici p. 703.

63 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Dclaration sur les Prires eucharistiques et les exprimentations liturgiques, 21/3/1988: Notitiae 24 (1988) pp. 234-236.

64 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Varietates legitimae : AAS 87 (1995) pp. 288-314.

65 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 838 § 3; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Inter Oecumenici, 26/9/1964, n. 31: AAS 56 (1964) p. 883; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Liturgiam authenticam, nn. 79-80: AAS 93 (2001) pp. 711-713.

66 Cf. Công đồng chung II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, 7/12/1965, n. 7; Pontificale Romanum, ed. 1962: Ordo consecrationis sacerdotalis, in Praefatione; Pontificale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II renovatum, auctoritate Pauli Pp. VI editum, Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum : De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, diei 29 iunii 1989, Typis Polyglottis Vaticanis, 1990, cap. II, De Ordin. presbyterorum, Praenotanda, n. 101.

67 Cf. S. Ignace d’Antioche, Ad Philad. 4: ed. F.X. Funk, I, p. 266; S. Corneille I pape, trích dẫn bởi S. Cyprien, Epist. 48, 2: ed G. Hartel, III, 2, p. 610.

68 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 28.

69 Ibidem.

70 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 52; cf. n. 29: AAS 95 (2003) pp. 467-468; 452-453.

71 Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconarum, editio typica altera: De Ordinatione presbyterorum, n. 124; cf. Missale Romanum, Feria V in Hebdomada Sancta: Ad Missam chrismatis, Renovatio promissionum sacerdotalium, p. 292.

72 Cf. Công đồng chung Trente, Session VII, 3 mars 1547, Sắc lệnh về các bí tích, can. 13: DS 1613; Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 22; Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) pp. 544, 546-547, 562; Bộ Giáo Luật, can. 846 § 1; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 24.

73 S. Ambroise, De Virginitate, n. 48: PL 16, 278.

74 Bộ Giáo Luật, can. 528 § 2.

75 Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, n. 5.

76 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 5: AAS 95 (2003) p. 436.

77 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 29; cf. Constitutiones Ecclesiae Aegypticae, III, 2: ed F.X. Funk, Didascalia, II, p. 103; Statuta Ecclesiae Ant., 37-41: Ed. D. Mansi 3, 954.

78 Cf. Ac 6, 3.

79 Cf. Jn 13, 35.

80 Mt 20, 28.

81 Lc 22, 27.

82 Cf. Caeremoniale Episcoporum, nn. 9, 23. Cf. Công Đồng CHUNG Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 29.

83 Cf. Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, cap. III, De Ord. diaconarum, n. 199.

84 Cf. 1 Tm 3, 9.

85 Cf. Pontificale Romanum, De Ordinatione Episcopi, presbyterorum et diaconorum, editio typica altera, cap. III, De Ordin. diaconorum, n. 200.

86 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vu thánh Sacrosanctum Concilium, n.10.

87 Cf. ibidem, n. 41; Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 11; Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, nn. 2, 5, 6; Sắc lệnh về nhiệm vụ mục tử của các giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, n. 30; Sắc lệnh về đại kết Unitatis redintegratio, 21/11/1964, n. 15; S. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, nn. 3 et 6: AAS 59 (1967) pp. 542, 544-545; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 16.

88 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 26; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 91.

89 1 P 2, 9; cf. 2, 4-5.

90 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 91; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 14.

91 Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 10.

92 Cf. S. Thomas d’Aquin, Somme Thologique, III, q. 63, a. 2.

93 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 10; cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452

94 Cf. Ac 2, 42-47.

95 Cf. Rm 12, 1.

96 Cf. 1 P 3, 15; 2, 4-10.

97 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, nn. 12-18: AAS 95 (2003) pp. 441-445; Id., Thư Dominicae Cenae, 24/2/1980, n. 9: AAS 72 (1980) pp. 129-133.

98 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

99 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, nn. 30-31.

100 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 1: AAS 62 (1970) p. 695.

101 Cf. Missale Romanum, Feria secunda post Dominica V in Quadragesima, Collecta, p. 258.

102 Jean-Paul II, Tông thư Novo Millennio ineunte, 6/1/2001, n. 21: AAS 93 (2001) p. 280; cf. Jn 20, 28.

103 Cf. Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 586; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 67; Paul VI, Tông huấn Marialis cultus, 11/2/1974, n. 24: AAS 66 (1974) pp. 113-168, ici p. 134; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Chỉ nam về lòng sùng kính bình dân và Phụng Vụ, 17/12/2001.

104 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 16/10/2002: AAS 95 (2003) pp. 5-36.

105 Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 586-587.

106 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Varietates legitimae, n. 22: AAS 87 (1995) p. 297.

107 Cf. Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 553.

108 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 29: AAS 95 (2003) p. 453; cf. Công đồng chung Latran IV, 11-30/11/1215, chap. 1: DS 802; Công đồng chung Trente, Khoá XXIII, 15/7/1563, Giáo lý và các khoản luật về truyền chức thánh, chap. 4: DS 1767-1770; Pie XII Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 553.

109 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 230 § 2; cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 97.

110 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 109.

111 Cf. Paul VI, Tông thư dưới hình thức tự sắc Ministeria quaedam, 15 aỏt 1972, nn.VI-XII: Pontificale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, De institutione lectorum et acolythorum, de admissione inter candidatos ad diaconatum et presbyteratum, de sacro caelibatu amplectendo, editio typica, diei 3 dcembris 1972, Typis Polyglottis Vaticanis, 1973, p. 10: AAS 64 (1972) pp. 529-534, ici pp. 532-533; Bộ Giáo Luật, can. 230 § 1; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 98-99, 187-193.

112 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 187-190, 193; Bộ Giáo Luật, can. 230 §§ 2-3.

113 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 24; S. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Inaestimabile donum, nn. 2 et 18: AAS 72 (1980) pp. 334, 338; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 101, 194-198; Bộ Giáo Luật, can. 230 §§ 2-3.

114 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 100-107.
115 Ibidem, n. 91; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 28.

116 Cf. Jean-Paul II, Allocution la Confrence des vques des Antilles, 7/5/2002, n. 2: AAS 94 (2002) pp. 575-577; Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles laici, 30/12/1988, n. 23: AAS 81 (1989) pp. 393-521, ở đây pp. 429-431; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, 15/8/1997, Principes thologiques, n. 4: AAS 89 (1997) pp. 860-861.

117 Cf. Công đồng chung Vatican ii, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 19.

118 Cf. T. BỘ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Immensae caritatis, 29 janvier 1973: AAS 65 (1973) p. 266.

119 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị De Musica sacra, 3/9/1958, n. 93c: AAS 50 (1958) p. 656.

120 Cf. Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Responsio ad propositum dubium, 11/7/1992: AAS 86 (1994) pp. 541-542; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Lettre aux Prsidents des Confrences des vques sur les fonctions liturgiques exerces par des lạcs, 15/3/1994: Notitiae 30 (1994) pp. 333-335, 347-348.

121 Cf. Jean-Paul II, Tông hiến Pastor bonus, art. 65: AAS 80 (1988) p. 877.

122 Cf. Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Responsio ad propositum dubium, 11 juillet 1992: AAS 86 (1994) pp. 541-542; BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Lettre aux Prsidents des Confrences des vques sur les fonctions liturgiques exerces par des lạcs, 15/3/1994: Notitiae 30 (1994) pp. 333-335, 347-348; Lettre un vque, 27/7/2001: Notitiae 38 (2002) 46-54.

123 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 924 § 2: Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 320.

124 Cf. T. BỘ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Dominus Salvator noster, 26 mars 1929, n. 1: AAS 21 (1929) pp. 631-642, ici p. 632.

125 Cf. ibidem, n. II: AAS 21 (1929) p. 635.

126 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 321.

127 Cf. Lc 22, 18; Bộ Giáo Luật, can. 924 §§ 1, 3; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 322.

128 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 323.

129 Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, n. 13: AAS 81 (1989) p. 910.

130 T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 5: AAS 72 (1980) p. 335.

131 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 147; T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 4: AAS 62 (1970) p. 698; T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 4: AAS 72 (1980) p. 334.

132 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 32.

133 Ibidem, n. 147; cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 28: AAS 95 (2003) p. 452; cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 4: AAS 72 (1980) pp. 334-335.

134 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 39: AAS 95 (2003) p. 459.

135 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae Instaurationes, n. 2b: AAS 62 (1970) p. 696.

136 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 356-362.

137 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 51.

138 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 57; cf. Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, n. 13: AAS 81 (1989) p. 910; bộ giáo lý đức tin,, Tuyền ngôn về tính duy nhất và tính phổ quát cứu độ của Đức Giêsu Kitô và của Giáo Hội, Dominus Iesus, 6 aỏt 2000: AAS 92 (2000) pp. 742-765.

139 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 60.

140 Cf. ibidem, nn. 59-60.

141 Cf. chẳng hạn Rituale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II renovatum, auctoritate Pauli Pp. VI editum Ioannis Pauli Pp. II cura recognitum : Ordo celebrandi Matrimonium, editio typica altera, diei 19 martii 1990, Typis Polyglottis Vaticanis, 1991, n. 125; Rituale Romanum, ex decreto sacrosancti Concilii Oecumenici Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli pp. VI promulgatum : Ordo Unctionis infirmorum eorumque pastoralis curae, editio typica, diei 7 dcembris 1972, Typis Polyglottis Vaticanis, 1972, n. 72.

142 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 767 § 1.

143 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 66; cf. Bộ Giáo Luật, can. 6 §§ 1, 2; et can. 767 § 1, cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 3 § 1: AAS 89 (1997) p. 865.

144 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 66; cf. Code de Droit Canonique, can. 767 § 1.

145 Cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 3 § 1: AAS 89 (1997) p. 865; cf. Bộ Giáo Luật, can. 6 §§ 1, 2; Commission Pontificale pour l’Interprtation Authentique Du Bộ Giáo Luật, Responsio ad propositum dubium, 20 juin 1987: AAS 79 (1987) p. 1249.

146 Cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 3 § 1: AAS 89 (1997) pp. 864-865.

147 Cf. Công đồng chung Trente, Khoá XXII, 17/9/1562, Giáo lý về Hy Tế cực thánh Thánh Lễ, chap. 8: DS 1749; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 65.

148 Cf. Jean-Paul II, Allocution aux vques des tats-Unis d’Amrique en visite “ad limina Apostolorum”, 28/5/1993, n. 2: AAS 86 (1994) p. 330.

149 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 386 § 1.

150 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 73.

151 Cf. ibidem, n. 154.

152 Cf. ibidem, nn. 82, 154.

153 Cf. ibidem, n. 83.

154 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 5: AAS 62 (1970) p. 699.

155 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 83, 240, 321.

156 Cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 3 § 2: AAS 89 (1997) p. 865.

157 Cf. đặc biệt Institutio generalis de Liturgia Horarum, nn. 93-98; Rituale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Ioannis Pauli Pp. II promulgatum: De Benedictionibus, editio typica, diei 31 maii 1984, Typis Polyglottis Vaticanis, 1984, Praenotanda, n. 28; Ordo coronandi imaginem beatae Mariae Virginis, editio typica, diei 25 martii 1981, Typis Polyglottis Vaticanis, 1981, nn. 10 et 14, pp. 10-11; T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Instruction concernant les Messes pour les groupes particuliers Actio pastoralis, 15/5/1969: AAS 61 (1969) pp. 806-811; Directoire des Messes d’enfants Pueros baptizatos, 1/11/ 1973: AAS 66 (1974) pp. 30-46; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 21.

158 Cf. Jean-Paul II, Tông thư dưới hình thức tự sắc Misericordia Dei, 7/4/ 2002, n. 2: AAS 94 (2002) p. 455; Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Responsa ad dubia proposita: Notitiae 37 (2001) pp. 259-260.

159 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 702.

160 Công đồng chung Trente, Khoá XIII, 11/10/1551, Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể, chap. 2: DS 1638; cf. Khoá XXII, 17/9/1562, Giáo lý về Hy Tế cực thánh Thánh Lễ, chap. 1-2: DS 1740, 1743; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 560.

161 Cf. Missale Romanum, Ordo Missae, n. 4, p. 505.

162 Missale Romanum, Institutio Generalis , n. 51.

163 Cf. 1 Co 11, 28.

164 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 916; cf. Công đồng chung Trente, Khóa XIII, 11/10/1551, Sắc lệnh về Thánh Thể, chap. 7: DS 1646-1647; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 36: AAS 95 (2003) pp. 457-458; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 561.

165 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 42: AAS 95 (2003) p. 461.

166 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 844 § 1; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, nn. 45-46: AAS 95 (2003) pp. 463-464; cf. Conseil Pontifical pour la Promotion de l’Unit des Chrtiens, Directoire pour l’application des principes et des normes sur l’œcumnisme, La recherche de l’unit, nn. 130-131: AAS 85 (1993) pp. 1039-1119, ici p. 1089.

167 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 46: AAS 95 (2003) pp. 463-464.

168 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 35: AAS 59 (1967) p. 561.

169 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 914; T. BỘ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Tuyên ngôn Sanctus Pontifex, 24/5/1973: AAS 65 (1973) p. 410; THÁNH BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH và THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Lettre aux Prsidents des Confrences des vques, In quibusdam, 31/3/1977: Enchiridion Documentorum Instaurationis Liturgicae, II, Rome 1988, pp. 142-144; THÁNH BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH và THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Responsum ad propositum dubium, 20/5/1977: AAS 69 (1977) p. 427.

170 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, 31 /5/1998, nn. 31-34: AAS 90 (1998) pp. 713-766, ở đây pp. 731-734.

171 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 914.

172 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium, n. 55.

173 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 31: AAS 59 (1967) p. 558; Commission Pontificale Pour L’Interpretation authentique du Code de Droit Canonique, Responsum ad propositum dubium, 1 juin 1988: AAS 80 (1988) p. 1373.

174 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 85.

175 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 55; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 31: AAS 59 (1967) p. 558; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 85, 157, 243.

176 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 160.

177 Bộ Giáo Luật, can. 843 § 1; cf. can. 915.

178 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 161.

179 BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Dubium: Notitiae 35 (1999) pp. 160-161.

180 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 118.

181 Ibidem, n. 160.

182 Bộ Giáo Luật, can. 917; cf. Commission Pontificale pour l’Interprtation Authentique du Code de Droit Canonique, Responsio ad propositum dubium, 11/7/1984: AAS 76 (1984) p. 746.

183 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 55; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 158-160, 243-244, 246.

184 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 237-249; cf. nn. 85, 157.

185 Cf. ibidem, n. 283a.

186 Cf. Công đồng chung Trente, Khoá XXI, 16/7/1562, Sắc lệnh về rước lễ, chap. 1-3: DS 1725-1729; Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 55; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 282-283.

187 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 283.

188 Cf. ibidem.

189 Cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Sacramentali Communione, 29/6/1970: AAS 62 (1970) p. 665; Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 6a: AAS 62 (1970) p. 699.

190 Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 285a.

191 Ibidem, n. 245.

192 Cf. ibidem, nn. 285b et 287.

193 Cf. ibidem, nn. 207 et 285a.

194 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 1367.

195 Cf. Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Responsio ad propositum dubium, 3/7/1999: AAS 91 (1999) p. 918.

196 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 163, 284.

197 Bộ Giáo Luật, can. 932 § 1; cf. T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 9: AAS 62 (1970) p. 701.

198 Bộ Giáo Luật, can. 904; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, n. 3; Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục; CÔNG ĐỒNG CHUNG Trente, Khoá XXII, 17/9/1562, Giáo lý về Hy Lể cực thánh Thánh lễ, chap. 6: DS 1747; Paul VI, Thông điệp Mysterium fidei, 3/9/1965: AAS 57 (1965) pp. 753-774, ici pp. 761-762; cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 11: AAS 95 (2003) pp. 440-441; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 44: AAS 59 (1967) p. 564; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 19.

199 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 903; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 200.

200 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n.. 36 § 1; Code de Droit Canonique, can. 928.

201 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 114.

202 Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, n. 36: AAS 90 (1998) p. 735; cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 27: AAS 59 (1967) p. 556.

203 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, surtout n. 36: AAS 90 (1998) p. 735-736; T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Actio pastoralis : AAS 61 (1969) pp. 806-811.

204 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 905, 945-958; cf. Bộ giáo sĩ. Dcret Mos iugiter, 22 fvrier 1991: AAS 83 (1991) pp. 443-446.

205 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 327-333.

206 Cf. ibidem, n. 332.

207 Cf. ibidem, n. 332; T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 16: AAS 72 (1980) p. 338.

208 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 333; Appendix IV. Ordo benedictionis calicis et patenae intra Missam adhibendus, pp. 1255-1257; Pontificale Romanum, ex decreto sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum, auctoritate Pauli Pp. VI promulgatum, Ordo Dedicationis ecclesiae et altaris, editio typica, diei 29 maii 1977, Typis Polyglottis Vaticanis, 1977, cap. VII, pp. 125-132.

209 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis , nn. 163, 183, 192.

210 Ibidem, n. 345.

211 Ibidem, n. 335.

212 Cf. ibidem, n. 336.

213 Cf. ibidem, n. 337.

214 Cf. ibidem, n. 209.

215 Cf. ibidem, n. 338.

216 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Liturgicae instaurationes, n. 8c: AAS 62 (1970) p. 701.

217 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, m. 346g.

218 Ibidem, n. 114; cf. nn. 16-17.

219 T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Sắc lệnh Eucharistiae sacramentum, 21/6/1973: AAS 65 (1973) 610.

220 Cf. ibidem.

221 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 54: AAS 59 (1967) p. 568; Huấn thị Inter Oecumenici, 26/9/1964, n. 95: AAS 56 (1964) pp. 877-900, ở đây p. 898; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 314.

222 Cf. Jean-Paul II, Thư Dominicae Cenae, n. 3: AAS 72 (1980) pp. 117-119; T. Bộ nghi lễ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 53: AAS 59 (1967) p. 568; Bộ Giáo Luật, can. 938 § 2; Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, Praenotanda, n. 9; Missale Romanum, Institutio Generalis, nn. 314-317.

223 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 938 §§ 3-5.

224 T. BỘ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Nullo unquam, 26/5/1938, n. 10d: AAS 30 (1938) pp. 198-207, ici p. 206.

225 Cf. Jean-Paul II, Tông thư dưới hình thức tự sắc Sacramentorum sanctitatis tutela, 30/4/2001: AAS 93 (2001) pp. 737-739; bộ giáo lý đức tin,, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques: les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

226 Cf. Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, nn. 26-78.

227 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.

228 Cf. Công đồng chung Trente, Khoá XIII, 11/10/1551, Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể, chap. 5: DS 1643; Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 569; Paul VI, Thông điệp Mysterium fidei, 3/9/1965: AAS 57 (1965) pp. 751-774, ở đây pp. 769-770; T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 3f: AAS 59 (1967) p. 543; T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 20: AAS 72 (1980) p. 339; JEAN-PAUL II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.

229 Cf. He 9, 11; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 3: AAS 95 (2003) p. 435.

230 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) p. 450.

231 Paul VI, Thông điệp Mysterium fidei : AAS 57 (1965) p. 771.

232 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 25: AAS 95 (2003) pp. 449-450.

233 Bộ Giáo Luật, can. 937.

234 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

235 Cf. Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, nn. 82-100; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317; Bộ Giáo Luật, can. 941 § 2.

236 Jean-Paul II, Tông thư Rosarium Virginis Mariae, 16/10/2002: AAS 95 (2003) pp. 5-36; ở đây n. 2, p. 6.

237 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Lettre de la Congrgation du 15/1/1997: Notitiae 34 (1998) pp. 506-510; Pnitencerie Apostolique, Lettre un prtre, 8/3/1996: Notitiae 34 (1998) p. 511.

238 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 61: AAS 59 (1967) p. 571; Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, n. 83; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317; Bộ Giáo Luật, can. 941 § 2.

239 Cf. Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, n. 94.

240 Cf. Jean-Paul II, Tông hiến Pastor bonus, art. 65: AAS 80 (1988) p. 877.

241 Bộ Giáo Luật, can. 944 § 2; cf. Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, Praenotanda, n. 102; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317.

242 Bộ Giáo Luật, can. 944 § 1; cf. Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, Praenotanda, nn. 101-102; Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 317.

243 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 10: AAS 95 (2003) p. 439.

244 Rituale Romanum, De sacra Communione et de cultu Mysterii eucharistici extra Missam, Praenotanda, n. 109.

245 Cf. ibidem, nn. 109-112.

246 Cf. Missale Romanum, In sollemnitate sanctissimi Corporis et Sanguinis Christi, Collecta, p. 489.

247 Cf. BỘ GIÁO SĨ et autres, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Principes thologiques, n. 3: AAS 89 (1997) p. 859.

248 Bộ Giáo Luật, can. 900 § 1; cf. Công đồng chung Latran IV, 11-30 novembre 1215, chap. 1: DS 802; Clment VI, Lettre Mekhitar, Catholicos d’Armnie, Super quibusdam, 29/9/1351: DS 1084; Công đồng chung Trente, Khoá XXIII, 15/7/1563, Doctrine et canons sur le sacrement de l’Ordre, chap. 4: DS 1767-1770; Pie XII, Thông điệp Mediator Dei : AAS 39 (1947) p. 553.

249 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 230 § 3; Jean-Paul II, Allocution au Symposium sur la “Collaboration des lạcs au ministre pastoral des prtres”, 22/4/1994, n.2: L’Osservatore Romano, 23/4/1994; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Avant-propos: AAS 89 (1997) pp. 852-856.

250 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Redemptoris missio, nn. 53-54: AAS 83 (1991) pp. 300-302; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Avant-propos: AAS 89 (1997) pp. 852-856.

251 Cf. Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad gentes, 7/12/1965, n. 17; Jean-Paul II, Thông điệp Redemptoris missio, n. 73: AAS 83 (1991) p. 321.

252 Cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 8 § 2: AAS 89 (1997) p. 872.

253 Cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 32: AAS 95 (2003) p. 455.

254 Bộ Giáo Luật, can. 900 § 1.

255 Cf. ibidem, can. 910 § 1; cf. Jean-Paul II, Thư Dominicae Cenae, n. 11: AAS 72 (1980) p. 142; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 8 § 1: AAS 89 (1997) pp. 870-871.

256 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 230 § 3.

257 Cf. T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Immensae caritatis, Avant-propos: AAS 65 (1973) p. 264; Paul VI, Tông thư dưới hình thức tự sắc Ministeria quaedam, 15/8/1972: AAS 64 (1972) p. 532; Missale Romanum, Appendix III: Ritus ad deputandum ministrum sacrae Communionis ad actum distribuendae, p. 1253; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 8 § 1: AAS 89 (1997) p. 871.

258 Cf. T. BỘ BÍ TÍCH VÀ PHỤNG TỰ THÁNH, Huấn thị Inaestimabile donum, n. 10: AAS 72 (1980) p. 336; Commission Pontificale pour l’Interprtation Authentique du Code de Droit Canonique, Responsio ad propositum dubium, 11/7/1984: AAS 76 (1984) p. 746.

259 Cf. T. BỘ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Huấn thị Immensae caritatis, n. 1: AAS 65 (1973) pp. 264-271, ở đây pp. 265-266; Commission Pontificale pour l’Interprtation Authentique du Code de Droit Canonique, Responsio ad propositum dubium, 1/6/1988: AAS 80 (1988) p. 1373; BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 8 § 2: AAS 89 (1997) p. 871.

260 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 767 § 1.

261 Cf. ibidem, can. 766.

262 Cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 2 §§ 3-4: AAS 89 (1997) p. 865.

263 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, surtout nn. 31-51: AAS 90 (1998) pp. 713-766, ở đây pp. 731-746; Jean-Paul II, Tông thư Novo Millennio ineunte, 6/1/2001, nn. 35-36: AAS 93 (2001) pp. 290-292; Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 41: AAS 95 (2003) pp. 460-461.

264 Công đồng chung Vatican II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, n. 6; cf. Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, nn. 22, 33: AAS 95 (2003) pp. 448, 455-456.

265 Cf. T. BỘ NGHI LỄ, Huấn thị Eucharisticum mysterium, n. 26: AAS 59 (1967) pp. 555-556; T. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia, 2 juin 1988, nn. 5 et 25: Notitiae 24 (1988) pp. 366-378, ở đây pp. 367, 372.

266 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia, n. 18: Notitiae 24 (1988) p. 370.

267 Cf. Jean-Paul II, Thư Dominicae Cenae, n. 2: AAS 72 (1980) p. 116.

268 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Dies Domini, n. 49: AAS 90 (1998) p. 744; Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 41: AAS 95 (2003) pp. 460-461; Bộ Giáo Luật, can. 1246-1247.

269 Bộ Giáo Luật, can. 1248 § 2; cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia, 2 juin 1988, nn. 1-2: Notitiae 24 (1988) p. 366.

270 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 33: AAS 95 (2003) pp. 455-456.

271 Cf. BỘ PHỤNG TỰ THÁNH, Chỉ nam về các cử hành Chúa nhật khi vắng linh mục Christi Ecclesia, n. 22: Notitiae 24 (1988) p. 371.

272 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 30: AAS 95 (2003) pp. 453-454; cf. Conseil Pontifical pour la Promotion de l’Unit des Chrtiens, Directoire pour l’application des principes et des normes sur l’œcumnisme, La recherche de l’unit, 25/3/1993, n. 115: AAS 85 (1993) pp. 1039-1119, ở đây p. 1085.

273 Cf. Conseil Pontifical pour la Promotion de l’Unit des Chrtiens, Directoire pour l’application des principes et des normes sur l’œcumnisme, La recherche de l’unit, n. 115: AAS 85 (1993) pp. 1085.

274 Bộ Giáo Luật, can. 292; cf. Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Dclaration pour l’interprtation authentique du can. 1335, seconde partie, Code de Droit Canonique, 15/5/1997, n. 3: AAS 90 (1998) p. 64.

275 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 976; 986 § 2.

276 Cf. Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Dclaration pour l’interprtation authentique du can. 1335, seconde partie, Code Droit Canonique, 15/5/1997, nn. 1-2: AAS 90 (1998) pp. 63-64.

277 Về những gì liên quan đến các linh mục đã được chuẩn sống độc thân, cf. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Normes de procdures pour la dispense du clibat sacerdotal, Normes substantielles, 14/10/1980, art. 5; cf. BỘ GIÁO SĨ và các cơ quan khác, Huấn thị Ecclesiae de mysterio, Dispositions pratiques, art. 3 § 5: AAS 89 (1997) p. 865.

278 S. Thomas d’Aquin, Somme Thologique, II, 2, q. 93, a. 1.

279 Cf. Jean-Paul II, Tông thư Vicesimus quintus annus, n. 15: AAS 81 (1989) p. 911; cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, nn. 15-19.

280 Cf. Jean-Paul II, Tông thư dưới hình thức tự sắc Sacramentorum sanctitatis tutela : AAS 93 (2001) pp. 737-739; bộ giáo lý đức tin,, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques: les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

281 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 1367; Conseil Pontifical pour l’Interprtation des Textes Lgislatifs, Responsio ad propositum dubium, 3/7/1999: AAS 91 (1999) p. 918; bộ giáo lý đức tin,, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques: les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

282 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 1378 § 2 n. 1 et 1379; bộ giáo lý đức tin,, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques: les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

283 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 908 et 1365; bộ giáo lý đức tin, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques : les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

284 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 927; bộ giáo lý đức tin,, Lettre tous les vques de l’glise catholique et autres Ordinaires et Hirarques: les dlits les plus graves rservs la Congrgation pour la Doctrine de la Foi: AAS 93 (2001) p. 786.

285 Bộ Giáo Luật, can. 387.

286 Ibidem, can. 838 § 4.

287 Ibidem, can. 392.

288 Cf. Jean-Paul II, Tông hiến Pastor bonus, art. 52: AAS 80 (1988) p. 874.

289 Cf. ibidem, n. 63: AAS 80 (1988) p. 876.

290 Cf. Bộ Giáo Luật, can. 1417 § 1.

291 Jean-Paul II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, n. 24: AAS 95 (2003) p. 449.

292 Ibidem, nn. 53-58: AAS 95 (2003) pp. 469-472.

293 Cf. Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, n. 14; cf. aussi nn. 11, 41 et 48.

294 Cf. S. Thomas d’Aquin, Somme Thologique, III, q. 64, a. 9 ad primum.

295 Cf. Missale Romanum, Institutio Generalis, n. 24.