
Chú Giải Tin Mừng - Chúa Nhật Phục Sinh B

02/04/2021
1.7K
Tin mừng Ga 20:1-9: Nhờ việc Phục sinh, Chúa Giêsu trở thành vua và được sử dụng quyền tài phán cánh chung...
CHÚ GIẢI TIN MỪNG
CHÚA NHẬT I – MÙA PHỤC SINH - NĂM B

CHÚA NHẬT I – MÙA PHỤC SINH - NĂM B

Học Viện Giáo Hoàng Piô X
MỒ TRỐNG (Ga 20:1-9)
1. Khi trình bày các biến cố ghi dấu và nối tiếp việc Chúa Giêsu sống lại, các thánh sử không muốn làm chóa đọc giả bằng những cách diễn tả nhằm đánh động trí tưởng tượng, nhưng chỉ muốn tập trung vào những nét chính yếu: Chúa Giêsu đã sống lại, mộ của Ngài trống rỗng từ ngày Chúa nhật, và chính Ngài nhiều lần đã hiện ra với các tông đồ của Ngài như một người sống.
Các bài tường thuật của họ luôn luôn khác nhau và mỗi người trình bày theo một nhãn giới riêng. Nếu tất cả đồng ghi nhận việc ngôi mộ được phát hiện trống rỗng từ sáng Chúa nhật do một hay nhiều phụ nữ, một hay hai thiên thần loan báo sự sống lại, thì mỗi một thánh sử sau đó lại xếp đặt câu chuyện theo sơ đồ riêng. Vì lưu tâm đến tư tưởng: Chúa Giêsu là thầy của luật mới mà Ngài đã công bố trên núi miền Galilê (Mt 5,7), Mt chỉ muốn tường thuật việc Chúa hiện ra (sau khi sống lại) trên một ngọn núi miền Galilê. Ở đó Ngài sai các môn đồ đi rao giảng khắp thế giói như những vị thầy (Mt 28,16-20). Mc thì quan tâm đến việc minh chứng Chúa Giêsu là Con TC mà không tìm cách xác định vị trí các sự kiện được kể lại; ông chỉ vắn tắt nêu lên lần hiện ra với Madalena, với hai khách bộ hành, sau đó với nhóm 11 tông đồ trong một bữa ăn, có lẽ bữa ăn tối phục sinh, mà ông ghép luôn với việc sai các tông đồ đi truyền giáo (Mc 16,9-18). Lc chỉ trình bày sứ vụ Chúa Giêsu như một tiến trình từ Galilê về Giêrusalem và sứ vụ các tông đồ như một tiến trình khác từ Giêrusalem đến với thế giới (24,47), cho nên ông không ghi lại những lần hiện ra ở Galilê, vì sợ xáo trộn lược đồ địa dư của mình; ông kể lại rất dài dòng lần hiện ra với hai môn đệ làng Emmau, với các tông đồ trong bữa ăn vào chiều Phục sinh mà ông ghép luôn với việc sai đi truyền giáo (Lc 24,13-49).
Gioan thì xếp đặt câu chuyện về sứ vụ Chúa Giêsu cốt để xác định thiên tính của Ngài và trình bày các chứng nhân đã tin hay không tin vào Đức Kitô trần thế. Trong chương 20, ông vẫn đeo đuổi những mục tiêu ấy, liên quan đến việc Chúa Giêsu sống lại. Trước hết ông quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại và tiến về Chúa Cha, sau đó, cho biết Maria Madalena và các môn đệ, ban đầu hoàn toàn không tin, nhưng dần dần đã tin vào sự sống lại, vào Đức Kitô thiên quốc thế nào. Câu chuyện bắt đầu bằng tiếng kêu thống khổ của Maia Madalena: "Người ta đã cất Chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu!" để rồi kết thúc bằng việc tuyên xưng đức tin và hoàn hảo của Tôma, người nghi ngờ cố chấp nhất: "Lạy Chúa tôi và là TC tôi".
Trong trình thuật này, như sẽ thấy, Gioan lần lượt gặp gỡ bản thánh sử khác nhưng không quan tâm kể lại tất cả. Cũng như trong các phần khác của phúc âm, ông thu gọn chứng từ của mình vào những yếu tố quan trọng để thêm rõ ràng và mạnh mẽ hơn; trong các đoạn văn liên hệ đến những người nữ thánh thiện, ông chỉ đề cập đến một người hoạt động và nổi bật hơn hết về đức tin là Maria Madalena. Ông bỏ qua nhiều cảnh huống hấp dẫn nhưng ít quan trọng; trong các lần hiện ra ông chỉ giữ lại những lần khơi dậy niềm tin và đánh tan nghi ngờ hay cứng lòng tin. Trong trang cuối của "Phúc âm các dấu chỉ", hơn lúc nào hết, ông muốn đưa chúng ta đến hành động tuyệt vời của đức tin, là chóp đỉnh và mục tiêu của cả cuốn sách: "Lạy Chúa tôi và là TC tôi".
2. Khởi đầu câu chuyện, Gioan chỉ giới thiệu một mình Maria Madalena trên đường đến mộ, trong phúc âm nhất lãm thì nói đến nhiều người. Tuy nhiên, trên đường từ mộ về, Maria Madalena phát biểu ở ngôi thứ nhất số nhiều: "người ta đã cất chúa khỏi mộ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu" (c.2). Người ta đã tìm cách cắt nghĩa sự bất thường này bằng nhiều cách:
1. Một vài nhà chú giải cho rằng Gioan chỉ kể tên Madalena vì bà là người đầu tiên được đề cập tới trong phúc âm nhất lãm và là người hoạt động nhất trong số các người nữ thánh thiện. Nếu Gioan không đề cập tới các người nữ khác, thì không phải là muốn cho người ta hiểu rằng Maria đã đi thăm mộ một mình đâu. Như một người chú trọng ăn thể, Gioan có thói quen đơn giản hóa: ông tách rời, rồi cho hai nhân vật chạm trán nhau để đề cao nét chính yếu của đề tài mà ông trình bày ở đây: là sự trái nghịch giữa phản ứng ngây ngô, đại lượng và đầy tình người của Maria Madalena và yêu sách của Chúa Giêsu kêu mời bà phải thấu hiểu bằng đức tin. Trong trường hợp này, tiếng "chúng tôi" của câu hai hình như được cắt nghĩa cách tự nhiên bằng sự kiện là Maria nói đại diện cho các người nữ khác cùng đi viếng mộ với bà mà đã về trước để báo tin cho Phêrô và Gioan.
2. Wellhausen và Spitta thì nghĩ tiếng "chúng tôi" chỉ là một cố gắng của người viết để dung hòa Gioan và các phúc âm nhất lãm; nhưng trong khi câu chuyện của Gioan khác biệt với các phúc âm nhất lãm về nhiều khía cạnh, mà muốn dung hòa về một điểm nhỏ nhặt và tinh vi như thế thì thật là chuyện lạ.
3. Bultmann và một vài nhà chú giải khác cho rằng: tiếng "chúng tôi" chỉ là một kiểu diễn tả của Do thái, có vài nét tương tự với Hy lạp. Dựa theo giả thuyết này, dalman (trong sách Grammatik des judischpalastinischen Aramaisch, xuất bản năm 1960) có viết: "trong tiếng Aramêo ở Galile, ngôi thứ nhất số nhiều được dùng để thế ngôi thứ nhất số ít". Dầu có cách cắt nghĩa văn phạm như thế cũng chưa thỏa mãn, vì trong phần nối tiếp câu chuyện (c.13) Maria vẫn nói lại câu chuyện đó nhưng lần này thì ở số ít.
Trong các lối giải thích trên, thì hình như lối giải thích thứ nhất hay và tự nhiên hơn hết.
Hai chi tiết khác của câu chuyện được các nhà chú giải giải thích khác nhau. Trước hết tại sao Gioan lại chạy đến mộ trước Phêrô? Vì Gioan trẻ và nhanh hơn. Lagrange và nhiều người khác giải thích như thế. Một lối giải thích khác cho rằng nếu Gioan chạy nhanh hơn và chạy đến trước vì ông là môn đệ Chúa yêu và tình yêu của Thầy đã thúc đẩy ông chạy nhanh hơn. Một vài nhà chú giải cổ xưa còn dám cho rằng Gioan chạy nhanh hơn vì ông là người độc thân. Người khác thấy đây là một biểu tượng đặc biệt: Gioan tượng trưng cho Kitô giáo gốc lương dân cởi mở đón nhận đức tin hơn, còn Phêrô tiêu biểu cho các tín hữu Do thái là những người đầu tiên được sát nhập vào giáo hội, mặc dầu đức tin của họ yếu kém hơn. Nhưng tiến vào ngôi mộ chưa phải là tin, hình như câu chuyện cũng muốn gợi ý là Gioan, người vào mộ sau hết lại chính là kẻ đạt đến đức tin trước hết. Trước những cố gắng giải thích rời rạc như vậy, cách khôn ngoan hơn hết có lẽ là xem như vấn đề không giải quyết được hoặc theo cách giải thích đơn giản và tự nhiên hơn hết: vì Gioan trẻ nên chạy nhanh hơn.
Chi tiết thứ hai: tại sao Gioan lại phải đợi Phêrô vào mộ trước rồi mới vào sau? Các nhà chú giải đưa ra nhiều lối giải thích khác nhau. cách thông thường hơn hết cho rằng Gioan có lẽ đã chờ Phêrô vì địa vị tối cao của Phêrô trong cộng đoàn các môn đệ. Người khác lại thấy trong chi tiết này một dấu vết của truyền thống trong Lc 24,12 theo đó thì chỉ có Phêrô chạy đến mộ mà thôi. Cách đơn giản hơn hết có lẽ nghĩ rằng: vì bàng hoàng trước cửa mộ rộng mở và những giải khăn liệm còn ở dưới đất nên Gioan đã chần chờ một vài giây phút trước sự kiện lạ lùng này, và như thế Phêrô đã đủ thì giờ bắt kịp; ông này thì tính tình nóng nẩy có lẽ đã chun vào mộ trước khi Gioan hết sững sờ. Cũng như trong các chi tiết khác thuộc loại này, việc tìm hiểu một biểu tượng để cắt nghĩa một sự kiện là điều không luôn luôn thích hợp mấy. Chắc hẳn, cách giải thích hay hơn hết thường là xác nhận rằng nếu như người chép sách Kinh thánh đã nghĩ rằng mình phải nêu lên một chi tiết không mấy quan trọng nào đó là vì sự kiện đã xảy ra như thế. Nằm trong biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Giêsu, một chi tiết đã đánh động ông, chi tiết tự nó không quan trọng, nhưng đã khắc sâu vào trong trí nhớ của ông vì có liên quan với biến cố quan trọng trên. Ngồi suy tưởng lại biến cố ấy, thánh sử cũng đồng thời nhớ lại chi tiết trên và ghi vào trong phúc âm mình để nói lên cái nét sống động và đích thật của biến cố.
Bên trong mộ, các khăn liệm vẫn còn. Khác với Lazarô khi sống lại (11,43), Chúa Giêsu không cần đến sự giúp đỡ nào của con người. Như Ngài đã lăn tảng đá đóng kín mộ ra thế nào, thì Ngài cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thể ấy. Sự kiện các khăn liệm vẫn còn "đặt đó" và khăn phủ mặt "được buộc riêng ra một chỗ", loại bỏ giả thiết cho rằng xác Chúa bị đánh cắp vội vã hoặc là bị đánh cắp một cách nào đó, vì không lẽ những người trộm xác lại có thể nghĩ đến chuyện lột trần xác chết như vậy. Chi tiết này là một dấu chỉ việc Chúa sống lại. Thực vậy khi chỉ nhìn dấu chỉ này thôi, Gioan liền tin vào Chúa sống lại, nhờ đức tin sống động của ông...Nếu không cần thấy Chúa đích thân sống lại để tin, thì ông cũng cần đến sức mạnh của dấu chỉ đó: "ông đã thấy và tin". Ông thú nhận mình đã không thực hiện hoàn toàn lời chúc phúc của thày: "phúc cho ai không thấy mà tin" (20,29). Chỉ một mình Mẹ Chúa Giêsu, người đã tin ở con mình trước khi được thấy bao phép lạ (2,36), là đã chứng tỏ một đức tin hoàn hảo, đến độ người không xuất hiện tất cả các biến cố này. Người đã không cần đến bằng chứng hoặc dấu chỉ nào đề tin vào sự sống lại của con mình. Nếu Chúa Giêsu có hiện ra với người sau khi sống lại, thì hầu như chắc chắn là không phải để tỏ bằng chứng sống lại cho người, nhưng đúng hơn là để chia sẻ với người nguồn vui và chiến thắng vinh hiển của mình. Có lẽ có người chống lại giả thuyết cho rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã hiện ra với mẹ Người, vì bản văn Mc nói rõ ràng: "Chúa Giêsu hiện ra trước hết với Maria Madalena (16,9), cả trước khi hiện ra với hai người nữ thánh thiện khác lúc họ đi loan báo cho các môn đệ; nhưng không có gì ngăn trở việc nghĩ rằng Chúa Giêsu hiện ra trước hết với mẹ Ngài như lòng đạo đức của các người tín hữu xưa nay vẫn thường tin như vậy. Nếu các tài liệu đã không thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với mẹ Ngài, là vì nó có tính cách riêng tư. Còn về phần Phêrô, thì thánh sử không nêu lên việc ông đạt đến niềm tin nhờ vào dấu chỉ khăn liệm. Theo Lc và Phaolô, ông là người đầu tiên được diễm phúc thấy Chúa hiện ra với mình (1Cr 15,6; Lc 24,34). Có phải vì thế mà Lc và Phaolô muốn gián tiếp cho rằng Phêrô phải thấy Chúa sống lại đã rồi mới tin không?
5. Môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu, một khi đã vào mộ thì thấy rõ điều mà Phêrô đang quan sát và chính ông khi mới tới mộ cũng thoáng thấy: đó chính là khăn liệm vẫn còn nguyên vẹn, ngôi mộ vẫn còn thứ tự không bị xáo trộn: giả thuyết xác bị mất trộm như vậy bị loại bỏ. "Ông tin".
Một vài người nghĩ rằng kiểu nói này tương đương với "ông xác tín" và cần phải nối ghép câu ấy vào lời nói của Maria Madalena. Ông xác tín rằng bà đã nói thật và thêm tin tưởng vào lời bà hơn (khi đã thấy khăn liệm). Lối giải thích đó của W.Nank xem ra không thể đứng vững được. Trước hết nó không để ý đến sức mạnh của kiểu nói "thấy và tin" của thánh Gioan, hơn nữa, còn mâu thuẫn với toàn bộ câu chuyện. Thật vậy, Maria Madalena không chỉ nói Chúa không còn đó nữa mà còn quả quyết là họ đã "lấy mất" xác rồi. Mà chính điểm này đã bị loại bỏ vì khăn liệm và khăn phủ mặt còn nguyên. Sau hết giải thích như thế là làm suy yếu đi tầm quan trọng của việc sùng kính đối với đức tin vào sự sống lại của môn đệ Chúa Giêsu yêu và giản lược đức tin này vào việc hùa theo lời nói của Maria Madalena. Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, khăn liệm và khăn khăn phủ mặt, người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô thì sao? Phúc âm không nói gì. Lc 24,12 cho biết là ông trở về nhà, kinh ngạc về việc xảy ra. Một số đông các nhà chú giải nghĩ rằng: ý hướng của thánh sử, dĩ nhiên là Phêrô cũng tin. Có lẽ người ta suy diễn điều đó từ câu sau đây: "Là vì họ chưa hiểu lời kinh thánh là Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Ga 20,9). Theo các nhà chú giải khác, thì hầu như thánh sử muốn biện minh cho người Chúa Giêsu yêu dấu, cố đề cao đức tin nhanh chóng của ông với sự chậm chạp của Phêrô: ông đã đến mộ trước tiên, thì cũng thế ông đã đạt được niềm tin phục sinh trước hết, và hồng ân này là do tình thương đặc biệt của TC. Dầu vậy, nói như Cha Lagrange là bản văn không đề cập đến Phêrô thì có lẽ đúng hơn. Nếu "môn đệ kia" chỉ nói cho mình thôi, thì phải là ông muốn nghi ngờ đức tin của ông đã nghiệm lòng: ông chỉ nói lên điều mình đang sống và cảm nghiệm.
Có nhiều lý lẽ vững vàng không cho phép nghi ngờ giá trị lịch sử và truyền thuyết liên quan đến việc khám phá mồ trống. Trước tiên là truyền thuyết này được xây dựng trên chứng từ của các người nữ. Mà chứng từ của phái nữ thì được coi là không thể chấp nhận (x.Lc 24,11), và các thánh sử đều đồng ý đặt chung từ đó dưới sự kiểm soát của các môn đệ, đặc biệt là thánh Phêrô. Ta không thấy lý do mà cộng đoàn Kitô hữu đã nêu lên vấn đề khó khăn đó nếu như thực tế không buộc như vậy. Đàng khác, cuộc tranh luận với người chống đối đã không bao giờ bàn về sự kiện ngôi mộ được phát hiện trống trơn, nhưng chỉ bàn về cách giải thích (x. Mt 27,62-66). Những kẻ nghịch đạo thời xưa cũng không bao giờ chối cãi sự kiện ấy. Qua bao nhiêu đổi thay của truyền thuyết phục sinh, sự xác quyết "mồ trống" vẫn không thay đổi.
KẾT LUẬN
Đoạn phúc âm này dẫn đưa chúng ta đến hai nền tảng thiết yếu của đức tin phục sinh: kinh thánh đã mạc khải chương trình TC, và chứng từ của các tông đồ, dựa trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, xác quyết rằng ý định TC đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Con TC (20,3031; Ga 1,1). Cho dẫu được căn cứ trên kinh nghiệm mồ trống và các lần hiện ra, đức tin phục sinh chỉ đạt mức độ sung mãn và chân lý hoàn toàn khi được đào sâu và kiện toàn trong sự thông hiểu ý định của TC mạc khải trong kinh thánh. Vì thế cho nên, câu tuyên xưng đức tin Kitô giáo cổ xưa nhất cũng mang khoản này: "...theo lời kinh thánh" (1Cr 15,3-4); ngay chính Chúa Giêsu trên đường Emmau cũng "khởi từ Môisen và lướt qua hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ (môn đệ) các điều đã viết về Ngài trong toàn bộ kinh thánh" (Lc 24,27.32). Chính nhờ sự thông hiểu ý định TC mà người môn đệ Chúa Giêsu yêu đã có trực giác ngay khi thấy dấu chỉ đầu tiên. Với ông dù chưa thấy Chúa, nhưng ý định của TC đã tỏ lộ; lời chúc phúc của Chúa được thực hiện cho ông rồi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Điều gì đã đi sâu chừng nào vào đời sống của con người thì khó diễn tả chừng ấy. Kinh nghiệm đức tin vào Chúa Giêsu sống lại cũng vậy. Đối với người ngoại giáo, sự sống lại của Chúa Giêsu chỉ có thực trong niềm tin của các Kitô hữu. Còn đối với người Kitô hữu, sự sống lại của Chúa Giêsu là một thực tại còn xác thực hơn một sự kiện lịch sử đã được kiểm chứng cách chắc chắn nhất. Người Kitô hữu có thể biểu lộ niềm tin của mình thế nào trước người ngoại giáo hoặc giản dị hơn, trước đòi hỏi chính đáng của lý trí mình? Ai tin vào sự sống lại của Đức Kitô thì rồi cũng phải mặc lấy thái độ của các tông đồ. Nhờ vào ngôn ngữ và cách suy tư riêng của họ, các vị này chứng thực rằng họ đã quen biết Chúa Giêsu trước khi Ngài chết, họ đã gặp thấy lại Ngài đang sống. Họ làm chứng, nghĩa là họ quả quyết điều họ đã sống và thấy. Biến cố xảy ra thế nào, họ không hiểu. Chúa Giêsu vượt qua từ sự chết đến sự sống thế nào, Ngài làm thế nào mà hiện ra trong cách sống không còn như xưa nữa, các tông đồ không nói gì hết. Nhưng họ xác nhận sự kiện một cách chắc chắn tuyệt đối. Cũng vậy đức tin của người Kitô hữu hôm nay xác quyết sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, nhưng không thể trả lời những vấn nạn đòi hỏi nó phải tường trình về cách thế sống lại. Tuy nhiên, nhờ vào sự hiện diện và hành động của Chúa Giêsu sống lại trong đời sống của mình. Họ có thể làm chứng cho Đức Kitô sống lại, nhưng không thể giải thích. Đó là mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.
"Cả hai cùng" Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mộ, sau khi được Maria Madalena báo tin. Trong sự vội vã và nao nức ấy, hãy xem đó là một dấu hiệu tượng trưng. Chúng ta có bị thu hút về Chúa Giêsu sống lại và hiện đang sống không? Với Phêrô và Gioan, ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn từ chiều thứ sáu. Thế mà giờ đây họ đang hướng về một niềm hy vọng, chắc chắn còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng hoảng chạy. trong cuộc sống của chúng ta, có những lần thất bại mà chúng ta bị cám dỗ cho là tuyệt vọng không? Một ước vọng nào đó mà chúng ta đã không thể thực hiện được, một công việc tông đồ nào đó không có kết quả, một hạnh phúc chính đáng nào đó đã chìm mất trong thất bại... chúng ta có nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của TC trong các cơn thử thách không? Chúng ta là môn đệ của Đấng Sống lại, Ngài kêu mời chúng ta đừng bao giờ đặt hòn đá thất vọng trên bất cứ sự gì, nhưng luôn luôn hy vọng. Có lẽ điều sống lại sẽ khác với điều ta mơ ước, nhưng chắc chắn là điều tốt đẹp hơn.
"Ông thấy và tin". Câu nói này về Gioan. Bản văn thêm rằng, lúc ấy ông mới hiểu lời kinh thánh. Kinh thánh đây là CƯ. Thật vậy con người và cuộc đời Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi CƯ. Người ta có thể nói như vậy về TƯ. Phải đọc Thánh kinh như thế nào? Phải tìm gặp Chúa Giêsu Kitô, là chân lý, là sức mạnh, là cố vấn, là đạo đức, là chính cuộc sống của chúng ta.
4. Sự sống lại của Chúa Giêsu vô hiệu hóa sức quyến rũ của những thắng lợi trần thế, bằng cách minh chứng rằng sự sống đích thực không tọa lạc nơi dương thế nhờ định luật đào thải hủy diệt, nhưng chính là sự trung thành với Thần khí, Đấng tác tạo con người mới của sự công chính và tình yêu Chúa Cha. Trong ý hướng ấy, Chúa Giêsu đã hủy diệt quyền lực tội lỗi cho dù ảo vọng của con người vẫn chưa tiêu tan, cho dù sự vô ý thức của chúng ta vẫn còn nặng nề khó lay chuyển; thực tế đã như thế rồi từ sáng phục sinh, lúc mà trong tiếng động đất, Chúa Giêsu con ông Giuse và bà Maria đã chỗi dậy khỏi mồ và tiến vào sự sống thật. Như thế một lần thay cho tất cả, Ngài minh chứng cho chúng ta rằng: con đường đưa tới hạnh phúc thật, con đường dẫn đến sự sống lại, không đi qua tội lỗi song qua lòng yêu mến TC và tha nhân vô điều kiện.
Học viện Piô Giáo hoàng - Chú Giải
MỒ TRỐNG HIỆN RA CHO MARIA MAĐALÊNA
Ga 20: 1- 18
(xem thêm Chú Giải Phúc âm Chúa Nhật năm B và C. Thật ra bản văn phụng vụ chỉ gồm từ câu 1 đến 10. Nhưng chúng tôi xin trích dịch cả phần chú giải câu 11- 18 (không được đọc trong phụng vụ) để làm tài liệu học hỏi và để liên tục với phần chú giải Tin Mừng Chúa Nhật 2 Phục sinh (Ga 20, 19-31). Trong nguyên bản, tác giả (Van den Bussche) chú giải toàn thể chương 20 trong một bài với tựa đề "Việc Phục Sinh").
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Trong nhãn giới của Gioan, việc Sống lại có ý nghĩa nào? Đấng Phục sinh ra đi? trở lại? hay đến với các môn đồ Người?
2. Sự hiện diện của Đấng Phục sinh, theo Gioan có những tính cách gì?
3. Sáng ngày Phục sinh, việc khám phá dịch thực xảy ra lúc nào?
4. Thánh sử ngụ ý gì khi bảo: "Ông (người môn đồ dấu yêu) đã thấy và ông đã tin. Là vì họ chưa hiểu lời Kinh Thánh..." (c.8b- 9a)?
5. Maria Mađalêna có thật sự tin vào việc Phục sinh khi thấy Chúa hiện ra không?
6. "Đừng động đến Ta" (c. 17), lối dịch này có trung thành với nhãn giới của Gioan chăng? Phải thay thế bằng cách dịch nào?
7. "Vì Ta chưa lên cùng Cha Ta" (c. 17). Câu này đúng ra là lời của ai?
1. Ý NGHĨA TỔNG QUÁT CỦA BIẾN CỐ PHỤC SINH TRONG TM THỨ 4.
Trong tư tưởng Gioan, một chương về Phục sinh thuộc về bản chất của cuộc Tử nạn chặt chẽ đến nỗi thánh sử không dời việc tôn vinh Chúa Giêsu vào lúc sống lại mà là đặt nó ngay từ khi Người chịu treo thập giá. Việc phục sinh chẳng phải là một biến cố tiếp theo cái chết, nhưng là một yếu tố của Giờ được xét như một bản thể Giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha. Thánh sử mô tả giá trị mặc khải và giá trị cứu rỗi của Giờ đó không phải tiếp theo cuộc Phục sinh, song từ trước lúc Chúa Giêsu chết, vì thần học của ông bao gồm toàn thể các sự kiện. Ngay đầu diễn từ giã biệt, ông trình bày cho thấy Chúa Giêsu đang giải thích làm sao việv Người ra đi chẳng phải là ra đi nhưng là đến thật sự với môn đồ. Vì thế các lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh, đối với Gioan, không hẳn là những bằng chứng hộ giáo về thực tại Phục sinh cho bằng là những giai đoạn mặc khải trong đó biểu lộ ý nghĩa đích thực của việc Người ra đi: ra đi là đến với thuộc nhân của Người.
Ngay từ đầu, việc khám phá mồ trống (20, 1- 9) đã đòi hỏi cái nhìn đức tin. Nỗi lo sợ trộm xác, những lần di đi về về bồn chồn trọn con đường dẫn tới mộ, tất cả bầu khí của buổi sáng hôm đó chứng tỏ các môn đồ kính yêu sâu xa vị Thầy đã khuất - và có lẽ cũng đắng cay thất vọng trước sự sụp đổ của Vương quốc Thiên sai nhưng không mấy biểu lộ cho thấy là họ am hiểu đúng đắn mọi sự kiện. Sự hiểu biết này chỉ bùng lên trước mồ trống nhờ ánh sáng của đức tin và lời Kinh thánh mà thôi.
Sau đó là ba lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh, mỗi lần tương ứng với một ý hướng riêng biệt của Thánh sử. Cả ba đều đặt dưới dấu hiệu sự hiện diện của Chua Giêsu. Ca nhập lễ Phục sinh tóm tắt chúng như sau: "Ta đã sống lại và còn ở với chúng con!": Hay đúng hơn: Chúa Giêsu đã sống lại và chỉ bây giờ Người mới thực sự ở với thuộc nhân của Người. Thánh sử đào sâu sứ điệp đó theo phương pháp vòng đồng tâm của ông. Cho Maria Mađalêna, Chúa Giêsu mặc khải rằng sự hiện diện ngày xưa, xét cho cùng, chỉ là một sự cận kề, một sự hiện diện nửa vời, về phía Người cũng như về phía họ. Quả vậy, sự hiện diện lúc đó của Người còn mặc hình thức che dấu, chưa phát lộ trong chiều kích đích thực và tròn đầy. Giờ đây nó mới thực bày tỏ ra. Với người, sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa đã được thể hiện (20, 10- 18).
Sự hiện diện ấy từ lúc này cũng tràn đầy hiệu lực. Suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã hoàn thành nhiều công việc và phép lạ để chuẩn bị sơ bộ cho việc Người đến lần sau cùng với tư cách Thiên sai mà hôm nay đã bắt đầu. Giờ đây, Chúa Giêsu đang ở trong chức vụ Con Người, này Người đã trở thành Con Thiên Chúavới quyền năng (Rm 1, 4), này Vương quốc đã đến (Mc 9, 1), này là thời của những công việc còn vĩ đại hơn các việc đầu tiên (1, 50- 51 ; 5, 20 ; 14, 12). Trên môn đồ đang tụ họp, người thổi Thần khí để ban cho họ quyền năng giải phóng thế gian khỏi ách nô lệ tội lỗi (20, 19- 23).
Và sau cùng, Chúa Giêsu hiện ra với Tôma (Ga 20, 24-29). Thánh sử kể lại sự kiện bất ngờ này chẳng phải để giảm uy tín bạn đồng liêu nhưng chỉ vì cái câu kết luận: Phúc cho ai không thấy mà tin! Sự hiện diện của Chúa Giêsu đâu dành cho những kẻ mà ta thường nghĩ là hạng ưu đãi của giờ đầu tiên, những kẻ đã được thấy người sống động thực. Không! Mọi thế hệ Kitô hữu đều sẽ có thể sống sự hiện diện của Chúa Giêsu, cũng trực tiếp như Tôma và mấy môn đồ khác. Các độc giả đầu nên của cuốn Tin Mừng này đều thuộc về thế hệ thứ hai và thứ ba, nhưng họ không chịu thua những người đi trước. Chúa cũng ở với họ, trực tiếp và hiệu lực không kém gì.
Chúa Giêsu đã công bố trước Đại Công nghị rằng từ nay thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự bên hữu quyền năng và đến trên mây trời (Mt 26,24; Mc 14,62; Lc 22,69). Lời ấy, trong, tư tưởng Gioan, được thực hiện rõ ràng trong các lần hiện ra sau Phục sinh. Cuộc Quang lâm, tực sự hiện diện của Thiên Chúa mà ngày Chúa Giê-su trở lại sẽ hữu hình hoá, từ nay đi vào trong trật tự các thực tại vô hình: nó biểu lộ một cách thoáng qua trong những lần hiện ra. tuy nhiên không vì thế mà gạt bỏ niềm mơ ước một cuộc trở về hữu hình. trái lại, việc Chúa Giê-su hiện diện trong Giáo Hội là bảo chứng chắc chắn nhất của việc Người trở lại trong vinh quang. Các tín hứa bấy giờ sẽ thấy vinh quang mà nay đã được chia sẻ cho (17,22-24), bấy giờ sẽ tỏ lộ ra bản tính Con Thiên Chúa của họ, bản tính họ đã được từ lúc này đây (1 Ga 3, 1-2). Các cuộc hiện ra của Đấng phục sinh đã có đó để bảo đảm không hẳn sự sống lại cho bằng là sự hiện diện bền lâu của Chúa Giêsu. Chúa đã hiện ra cho các môn đồ đầu tiên, chính Người cũng ở trong Giáo Hội đến tận cùng thời gian, đến ngày sẽ thực sự biểu lộ trong vinh quang sung mãn tước vị Con Người của Người. Nói theo ngôn ngữ chuyên môn, đó là thực hiện trước cuộc cánh chung (eschatologie mticipée). Mối hy vọng, nỗi mong chờ ngày Quang lâm, Gioan chuyển thành sự chắc chắn - chắc chắn theo đức tin, dĩ nhiên rồi? "trạng huống của thời sau hết từ bây giờ đã được thể hiện, tuy nhiên vẫn không loại trừ một nỗi ngong ngóng đợi chờ cuộc Quang lâm hữu hình. Người Kitô hữu nào mong mỏi ngày tận cùng tất nhiên cũng hy vọng và ao ước sự hoàn thành sau hết, ao ước cái lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự trong mọi người (1 Cr 15,28).
Sau cùng các cuộc hiện ra đó chỉ là áp dụng, vẽ ra, cụ thể hóa những gì Chúa Giêsu đã nói và lặp đi lặp lại trong diễn từ giã biệt. Việc ra đi của Người mặc ý nghĩa đầu tiên là đến cùng Cha, và ý nghĩa thứ hai tương ứng với ý nghĩ thứ nhất, là về gặp lại các môn đồ. Và đó không phải là một cuộc trở về tạm bợ, một buổi tái ngộ mau qua làm như để an ủi, song là việc đến thực sự, dứt khoát, chất chứa sự hiện diện trọn vẹn và tràn đầy hiệu lực của Thiên Chúa. Quả vô ích khi lấy lại mọi bản văn lần nữa; chỉ cần đọc lại 14, 12- 24, 16, 16- 27 ; 17, 20- 24. Hai trong ba cuộc hiện ra có một từ ngữ chủ chốt: Chúa Giêsu "đã đến " hay "đến" (20, 19.24.26). Đấy chính là đề tài của toàn chương. Việc Chúa Giêsu đến như thế mặc ý nghĩa nào? Các trình thuật không được viết ra để thỏa mãn cái khoái kể chuyện: Chúng đáp lại một ý định thần học; chúng minh giải thần học về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thời gian nằm giữa việc Người đến thực sự (việc Người ra đi) và việc Người trở lại vinh quang.
Dù nặng chất thần học đến đâu, các trình thuật này vẫn không kém sống động. Chúng chẳng những nói lên một kinh nghiệm sống động phi thường trong mọi chi tiết, mà còn đặc biệt diễn tả lột cảm giác ngỡ ngàng còn kéo dài mãi về sau. Chúng thật sự làm sống lại cuộc khám phá sau đây: phục sinh có nghĩa là Chúa Giêsu hiện diện mãi mãi. Cùng với các môn đồ đầu tiên, chính độc giả cũng cảm nhận được cú va chạm mở tung cho mình sự hiểu biết trong đức tin. Một bút pháp rời rạc, một diễn từ trực tiếp, một mở hỗn tạp thì hiện tại và bán quá khứ, từng ấy các yếu tố đều góp phần làm nổi bật cách mạnh mẽ cảm thức của một kinh nghiệm sống. Thánh sử đã sống trong bao năm trường sự hiện diện của Chúa Kitô; thế nhưng ông vẫn không quên được ấn tượng của giây phút ban đầu ấy. Với tài khéo léo đã lừng chứng ló nhiều nói khác, ông giữ lại được ở đây giây phút của sự' khám phá đó, giây phút duy nhất trong muôn ngàn. Các trình thuật làm ta bỡ ngỡ vì tính chất tươi mát, vì bút pháp trực tiếp, vì nồng độ tình người của chúng. Dù chú tâm chiêm ngửng trong đức tin cái thực tại sâu xa của việc Thiên Chúa hiện diện qua các biến cố, bản văn vẫn không vì đầy tính trở thành một suy tư thần học. Chúa Giêsu đứng đó, thình lình, trước mặt những con người đích thực, và lộ những phản ứng đầy tính chất người đến nỗi về sau có kẻ trách là không mấy hợp lý. Chúa Giêsu tỏ ra rất nhân bản, ân cần và đầy vẻ khôi hài... đến nỗi vài nhà phê bình dã từng cho rằng Tin Mừng này là một khái luận thần học, cũng nói đến tính khôi hài của Người! Ngay cả lúc ấy, Ngôi lời vẫn nhập thể; nhưng chỉ lúc ấy, sự hiện diện thần hình trọn vẹn nới trở thành một thự( tại nhân loại mãi mãi.
2. MỒ TRỐNG (20: 1- 9)
Lễ Vượt qua Do thái trôi đi mà chẳng ai bàn đến ngôi mộ bị niêm phong của Chúa Giêsu. Đối với các môn đồ, đại lễ ấy thật là rnột lễ buồn thảm. Mộng vàng tan mây! Người mà thiên hạ tưởng là Đấng Messia nay nằm dưới ba tấc đất. Câm lặng, họ nhìn đống tro tàn hoài bão của mình. Chúng tôi đã hy vọng... các môn đồ làng Emmau sẽ nói thế (Lc 24, 21).
Ngày đầu tiên ấy của tuần lễ chỉ một nhịp mới trong trật tự thời gian: nó sẽ trở thành Ngày của Chúa (Kh 1, 10). Đó là ngày thứ ba sau vụ xử đóng đinh. Các phụ nữ đã có mặt bên thập giá (Mc 15,47 và song song ; Ga 19,25) đi đến mồ theo thói quen, để xức thuốc thơm (Mc 16,1 và ss). Gioan chỉ kể tên Maria Mađalêna, nhân vật chính của lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đầu tiên ; bà cũng là kẻ được Tin Mừng Nhất lãm xướng danh trước hết: chắc hẳn vì là người hoạt động nhất. Khi nghe người thanh niên đứng trong mồ trống báo tin là Chúa đã sống lại và nói các bà đi báo tin cho Phêrô và các môn đệ của Người.
Không tìm gì hơn, Maria vụt bỏ chạy. Bà đi báo động cho đội tiền phong của nhóm nhỏ môn đồ: Phêrô và người môn đồ dấu yêu Hai kẻ này đã từng đấu tranh để dành chỗ nhất biết mấy! Trình thuật chúng ta là một tiếng vọng xa xôi của mối tranh chấp giữa họ. Người môn đồ yêu dấu đã theo Chúa Giêsu trước Phêrô (1,37-40). Nếu ông này đã là phát ngôn viên của cả nhóm trong một giây phút khủng hoảng (6,68-69), thì Gioan vẫn là người môn đồ thân thiết nhất, gần gũi nhất với Chúa Giêsu trong bữa Tiệc cuối cùng (13,23), bữa tiệc mà Phêrô chỉ được cái là xử trí sai lầm. Tính táo bạo thiếu suy nghĩ của Phêrô còn lộ liễu ở vườn Ghetsêmani, nơi mà nhát kiếm vô ích của ông cho thấy ông kém thông minh rõ ràng (18, 10- 11). Và khi đến giây phút quyết định thì ông lại chối Chúa Giêsu (18, 17). Người môn đồ dấu yêu trái lại đứng kề thập giá và được Chúa Giêsu trao phó mẹ người cho (19,25). Nếu xét khách quan kỹ lương, thì ông này là kẻ xứng đáng cầm đầu nhóm nhất. Người đồ đệ ấn hành tác phẩm Gioan quả không lầm về điểm đó: nịnh thuật việc trao quyền cho Phêrô cố ý "hóa giải " ba lần chối Chúa và Phêrô ảnh như cũng bỡ ngỡ thấy mình được cho đứng trên người môn đồ dấu yêu (21, 15-22). Chúng ta đừng quên rằng đây là một sự tuyển chọn.
Cuộc chạy bộ đến mồ buổi sáng phản ảnh mối tranh chấp xa xưa kia. Vị thánh sử hồi tưởng chuyện cũ không một chút oán hờn. Việc rong ruổi trong buổi rạng đông đó còn sống động trong trí ông đến nỗi những tình cảm vô thức hồi xảy ra biến cố tự nhiên tái xuất hiện. Hai ứng cử viên quyền tối thượng đều được Maria Mađalêna báo đông với những từ ngữ ngụ ý việc trộm xác. Maria nói Chúa Giêsu là Chúa, theo nghĩa là rabbi: Thầy (x.20,13); nhưng chính sử lại gán cho hạn từ ấy cái nghĩa nó sẽ mặc về sau trong các lời tuyên tín: nhờ việc Phục sinh, Chúa Giêsu trở thành vua và được sử dụng quyền tài phán cánh chung. Maria thêm: Chúng tôi không biết họ đặt Người ở đâu... Tiếng số nhiều "chúng tôi" có thể xem như là một hình thức tập hợp chỉ các môn đồ, hay như một kiểu nói Sêmita, song có lẽ Maria nói nhân danh các phụ nữ đã đi theo với bà đến mộ. Phản ứng của bà bộc lộ lòng bà thương mến sâu xa: lần tiếp sẽ xác nhận điều đó.
Bắt đầu chạy! Người môn đồ dấu yêu đến mộ trước tiên. Phải chăng đó là dấu hiệu của một tình yêu lớn hơn đối với Thầy? Phải chăng là vì trẻ tuổi? Một vài nhà chú giải xưa bảo bang ông chạy nhanh hơn bởi lẽ không có gia đình. Hãy gác lại những vấn đề ông thòng ấy và hãy để cho đầu tóc trắng xóa của vị thánh sử già nua hưởng niềm vui tưởng nhớ thành tích của mình? Việc hơn thua đó cũng chẳng có ý nghĩa biểu tượng gì. Người ta đã muốn cho rằng Gioan tượng trưng Kitô hữu gốc lương dân, cởi mở hơn với đức tin, còn Phêrô tượng trưng cho Ki-tô hữu gốc Do thái, là những kẻ đầu tiên vào Giáo Hội mặc dầu đức tin thua kém. Nhưng vào trong mộ không phải là tin, và trình thuật hình như ngụ ý rằng Gioan, vào mộ sau cùng, lại đạt đức tin trước hết.
Tuy nhiên niềm vui tường thuật vẫn pha lẫn một chút gì đó. Thánh sử hình như còn tiếc nuối là đã không vào lập tức. Phải chăng ông chờ Phêrô vì kính trọng, vì tinh thần đồng đội? Chúng ta đừng phê phán Gioan với một cặp kính màu hồng như thế. Vài tác giả đã chẳng nghi ông sợ ma đó sao? ông chỉ cần kiểm nhận mồ mở và vài đãi vải là đủ để suy ra rằng Maria Mađalêna đã có lý. Mồ trống không còn là một lời đồn đãi (Mc 16, 11. 13 ; Lc 24,22-23) vì sự kiện được xác nhận bởi hài chứng nhân. Công chứng này sẽ có ích về sau khi phải chống lại tin đồn người Do thái tung ra là chính các môn đồ đã đánh cắp xác (Mt 27, 64 ; 28, 12- 15).
Nhưng này Phêrô đến! ông đi vào trong mộ. Đây mới là lúc khám phá thực sự. Trong trường hợp trộm xác, ngôi mộ hẳn lộn vô cùng; thế mà dải vải, khăn liệm đều được cuốn lại gọn gàng, đâu vào đấy. Anh sáng chợt bùng lên trong trí của người môn đồ dấu yêu. Chuyện xảy ra trước mắt làm ông nhớ lại lời Kinh thánh, lời Chúa Giêsu vẫn nhắc tới thường xuyên. Bí mật được giải đáp. Không cần phải nhìn sự kiện cụ thể mới thấu hiểu được trong đức tin ; Kinh Thánh cũng có thể soi sáng cho những ai không thấy chính các sự kiện (20,29). Gioan ám chỉ lời Kinh thánh nào? Ta không rõ. Chỉ biết cộng đoàn Kitô hữu sơ khai có nhắc tới một vài Thánh vịnh, chẳng hạn như Tv 16,8-11 trong Cv 2, 24-31 ; Tv 2,7 trong Cv 13,32-37. Chính Chúa Giêsu sẽ lấy ánh sáng Kinh thánh giải thích việc phục sinh của Người (Lc 24,25-26.32.44.46). Lời rao giảng cổ kính nhất cũng có nại đến Thánh Kinh (1Cr 15,4).
Gioan chẳng bảo người môn đồ có thể lộ cho Phêrô cái trực giác đức tin đầu tiên của mình hay không; thế nhưng trình thuật xem ra ngụ ý điều đó. Phêrô có chia sẻ trực giác ấy chăng? Chúng ta không thể suy ra được. Dầu sao chính Chúa Giêsu đã phải củng cố và tăng cường đức tin chớm nở ấy. Tuy nhiên đức tin này, từ giờ trở đi có một đối tượng rõ ràng: Chúa Phục sinh.
Người môn đồ thấy và tin: nét nghịch lý của cuộc Tử nạn đã tìm được lời giải nghĩa. Tất cả đều đáp lại ý hướng của Thiên Chúa diễn tả trong Thánh Kinh. Vị thánh sử già nua mỉm cười hồi tưởng đức tin chớm nở ấy, nhớ làm sao mình đã là người đầu tiên linh cảm chân lý. Nhưng bây giờ ông cần phải đưa độc giả của ông đến, sự hiểu biết trong đức tin đó, làm cho họ hiểu lâu nhớ kỹ như ông ý nghĩa của cuộc phục sinh đối với họ: đó là một sự hiện diện tròn đầy hữu hiệu và thường xuyên của Chúa.
3. MARIA MAĐALENA (20: 10-18).
Giữa lúc ấy, Maria Mađalêna trở lại mồ. Bản văn hình như ngầm bảo hai môn đồ còn ở đó. Nhưng họ bỏ bà và ra về. Phải chăng các ông đã không chia sẻ cho Maria mối linh cảm của mình, hay bà vẫn thờ ơ với chuyện ấy?
Bà đến để than thở theo tục lệ, thành ra vẫn đứng khóc cạnh mồ, mặc dầu xác chẳng còn bên trong. Nước mắt bà chứng tỏ lòng quyến luyến sâu xa. Nhưng đây đâu phải là nơi tuôn đổ giọt lệ nhân trần? Chúng làm cho Maria không thấy rõ ràng trong ngôi mộ trống. Người môn đồ yêu dấu đã chỉ cần nhìn là đủ tin, vì nhớ lại lời Kinh Thánh.
Phần Maria, phải có sự trợ lực của hai thiên sứ. Thật là một cuộc hiện ra rất gợi hình: họ mặc áo trắng, như thói quen của các nhân vật thiên quốc (Mc 9,3 và ss; 16,5 và ss: Cv 1, 10 ; Kh 3, 4-5 ; 4, 4). Nhị vị ngồi hai đầu nơi đã đặt xác Chúa Giêsu (Lc 24, 4): nghĩa là thực tại thiên giới muốn phân định đâu là nơi đã an táng Người. Dấu hiệu này lẽ ra đủ cho Maria hiểu. Nhưng một lần nữa, phản ứng nhân loại của bà lại cản trở sự hiểu biết của đức tin. Đáp câu hỏi của thiên thần, bà trút cả nỗi niềm xao xuyến và như vậy cho thấy chẳng hiểu gì trơn. Người ta đã cất xác Chúa bà và không biết họ đặt Người ở đâu. Trên miệng bà, tiếng Chúa có nghĩa là Thầy yêu dấu. Nhưng đối với thánh sử và độc giả, đó là Đấng Phục sinh. Song Mana còn khuya mới nghĩ tới chuyện sống lại! Đấy là chủ đề "ngộ nhận" trong Gioan (.x. 11, 23-24).
Vì sự thể như vậy, nên chính Chúa Giêsu phải đích thân xuất hiện... thế mà bà'vẫn chưa nhận ra Người? Chẳng phải bởi trời còn mờ tối; song vì như hai môn đồ làng Emmau, mắt bà cũng bị "bưng bít" không thể nhận ra Người được. Chúa Giêsu Phục sinh chỉ hiển lộ rõ ràng cho những ai có đôi mắt được niềm tin mở rộng (Lc 24,16; x.Ga 21,4; Lc 24,37; Mc 16,12). Thế mà Maria còn lâu mới nghĩ đến chuyện sống lại. Cho dù có thật sự phục sinh vẫn là một chân lý đức tin. Đừng tưởng Đức Giê-su hoá trang thành kẻ làm vườn. Maria, vì chỉ biết phản ứng theo kiểu nhân loại, nên không thể nhận ra Người, và vì đang ở trong một thửa vườn, nên bà tưởng Chúa Giêsu là một người làm vườn nào đó.
Cũng câu hỏi lúc nãy được nêu lên: "Tại sao bà khóc?". Một lần nữa, Mana lại để trào ra nỗi thất vọng của mình cách mãnh liệt hơn. Bà muốn tìm xác. Phải chăng người làm vườn đã di chuyển? Bà muốn mang nó đi chôn cất ở một nơi mà bà có thể đến khóc thương mãi mãi. Bà tìm một kẻ chết, trong lúc Người lại sống!
Bà không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng Người, Người biết bà quá rõ! Người gọi tên bà, như trước đây đã từng cho Nathanael thấy Người biết rõ ông (1,47- 48). Mắt bà sáng lên: Lạy Thầy! Tiếng rabbouni long trọng hơn "rabbi" và đặc biệt được dùng để gọi Thiên Chúa. Song Maria chưa đạt đến chỗ mà Tôma sẽ đạt tới sau khi rờ các vết thương (20, 8). Bà tràn ngập niềm vui, thế nhưng vẫn không nhận ra bản tính đích thực của Thầy. Bà nghĩ là Người đã trở lại. Ba ngày vừa qua chỉ là một cơn ác mộng ghê gớm. Sự sống có thể tiếp tục. Vì Thầy vô vàn kính yêu nay lại trở về.
Nhưng Chúa Giêsu không phải trở về! Cuộc Khổ nạn và cái chết của người đâu bỉ hủy bỏ, biến thành một thứ ảo giác! Đây không phải là Người trở về, song là đến: chỉ giờ phút này ta mới có thể bảo thật rằng Chúa Giêsu đến. Xưa kia, các môn đồ đã theo Người mà không hiểu Người; họ đã hoan hô Lời Người, đã phấn chấn vì phép lạ người, đã há hốc nhìn người như nhìn một kỳ quan của thế giới. Nhưng rốt cục Người vẫn xa lạ đối với họ, như quả thật Người đã xa lạ. Không bao giờ bạn hữu Người đã đi sâu vào bản tính đích thật của Người, đến tận Cha trong Người. Họ chỉ thấy Người ngoại diện. Nhưng bây giờ, Người ở bên họ, hoàn toàn là Người. Do đấy cái mà ta gọi là cuộc trở về của người thật ra là việc Người đến (Ga 14,3.18.23; 16,16.22.27).
Đừng cầm Ta lại như thế. Maria, trong niềm vui tái ngộ, ôm chầm lấy chân Chúa Giêsu, theo kiểu đông phương. Bà muốn kéo dài những giây phút gặp gỡ này. Nhiều người dịch: "Đừng động đến Ta", như thể Đấng Phục sinh cảm thấy bị xúc phạm vì người trần chạm tới. Vậy Tôma thì sao?... Không phải Đấng Phục sinh bị tổn thương, nhưng là đức tin của Maria Mađalêna: nếu Chúa Giêsu để bà làm, bà sẽ càng chìm sâu vào ngộ nhận... Vì Ta chưa lên cùng Cha Ta, Chúa Giêsu bảo, và tiếng này có giá trị cho bà hơn là cho Người. Đối với bà, Chúa Giêsu chưa phải là Đấng đã trở về cùng Cha.
Vì trong tư tưởng Gioan, việc sống lại không phải là một chặng trên con đường dẫn từ mồ đến nơi trú ngụ thiên quốc. Cái chết của Chúa Giêsu là thăng thiên: việc hiện ra của Đấng Phục sinh có mục đích làm cho các môn đồ hiểu rằng cái chết của Người thực ra là một cuộc thăng thiên và thăng thiên thực ra là việc Người đến với môn đồ. Maria bấu víu Người, không cho Người lên với Cha là vô ích: Người đã ở bên chúa Cha rồi. Cử chỉ của Maria muốn kéo dài một sự hiệp thông nhân loại vô nghĩa và vô dụng. Trong tâm trí bà, Chúa Giêsu còn ở trên trần gian và đã không có việc trở về với Cha. Bởi thế Chúa Giêsu dùng những hạn từ nhân ái mà bà hiểu được và bảo với bà rằng người đang lên cùng Cha. Nhưng bà cần phải đi vào và đào sâu sự hiểu biết các biến cố ấy trong đức tin. Bà phải hiểu rằng cuộc hiện ra đây chỉ là sự biểu lộ nhất thời của một trạng huống đã thực hiện dứt khoát rồi. Chúa Giêsu ở với Cha; là hình ảnh của Cha, Chúa Giêsu cũng ở với thuộc nhân, bằng một sự hiện diện vô hình, nhưng xác thực và hữu hiệu.
Maria thấy mình được trao nhiệm vụ mang đến cho các môn đồ sứ điệp phục sinh của mọi thời: Ta lên cùng Cha Ta (từ nay trở thành) Cha các con. Có người đã muốn coi sứ điệp này là một sự phân biệt giữa tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, Con độc nhất, với từ của các tín hữu. Nhưng chẳng ai trong Tân ước, kể cả Gioan: hồ ghi. Sự khác biệt giữa tử hệ tự nhiên của Chúa Giêsu và tử hệ ân sủng của chúng ta cả (1, 13), nên đấy không phải là nội dưng chính yếu của sứ điệp trao cho Maria Mađalêna. Mục đích của nó chẳng phải là dạy các môn đồ biết họ là nghĩa tử, song là mặc khải cho họ thấy từ rày họ đích thực là con, rằng Cha Chúa Giêsu đã thực sự trở thành Cha của họ. Một khi ra đi, Chúa Giêsu làm cho Cha hiện diện sung mãn tràn đầy (14,21- 23). Vì thế mà chỉ bây giờ họ mới được ban danh hiệu "anh em": lúc này cùng với người, họ là con của Ta, sống sự sống thần linh mà Chúa Giêsu đã trở thành nguồn mạch đầu tiên (14. 19). Tử hệ ấy được thực hiện nhờ ân sủng, dĩ nhiên! nhưng không vì thế mà kém đích thực. Loài người cần phải được quyền trở nên con cái Thiên Chúa (1, 12), và họ phải đón nhận quyền ấy nhờ Thiên Chúa sinh lại (1, 13 ; 1Ga 3,1 -2). Sứ điệp phục sinh nhắm tới chân lý đó, nhắm tới việc thể hiện có tính cách cánh chung của phụ tính thần linh: Cha yêu loài người như yêu Con (16, 27); loài người được thâu nhận với Con vào tình yêu phụ tử của Thiên Chúa. Tử hệ của Chúa Giêsu làm cho tử hệ của loài người thành tựu. Vì Cha chỉ yêu trong Con những ai yêu Cha trong Con (16, 27).
Như thế sứ điệp phục sinh tóm kết diễn từ giã biệt và công bố sự hoàn thành của diễn từ đó. Nó.cũng đồng thời loan báo rằng lời hứa Cựu ước, chứa đựng trong công thức giao ước sau đây, đã thực hiện: Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Bởi vì từ nay Thiên Chúa là Cha, nên giao ước đã đạt tới mức độ thể hiện cao nhất. Phụ tính của Thiên Chúa theo giao ước xưa, chỉ là lời hứa một sự hiện diện bảo vệ, cứu giúp. Từ nay đó là một sự hiện diện nội tâm, thường xuyên và hiệu lực tộ độ (Ga 14, 23 ; 1, 14 ; 2, 21- 22 ; 4, 21- 24): Giavê "Ta là" của lời hứa đã trở thành, trong Giêsu, Đấng "Ta là" vĩnh viễn (8,24-28). Thiên Chúa đã thật sự trở thành Thiên Chúa của họ, bởi vì thần tính của Ngài được thể hiện trong phụ tính của Ngài.
Vững mạnh nhờ sứ điệp nên Maria, vốn là người đầu tiên đã báo động anh em, rày có thể đi trấn an họ. Không một chữ nào về phản ứng của bà trước lời Chúa Giêsu (x.Lc 24,11- 22). Trình thuật chẳng có để mô tả trường hợp Maria Mađalêna, nhưng là để mang một sứ điệp cho mọi tín hữu. Vì thế Maria phải lập tức lên đường. Bà đã thấy Chúa.
Đối với thánh sử, thị kiến này vừa hữu hình vừa thiêng liêng. Chắc hẳn Maria đã không lãnh hội ngay tất cả ý nghĩa cuộc khám phá của mình. Trước tiên bà muốn loan báo mình đã thấy Thầy tận mắt (20,2. 1 3), nhưng đói với thánh sử, dùng lời ấy có một âm hưởng phục sinh. Các hạn từ "thấy và Chúa" nằm trong một viễn tượng Kitô giáo: đó là thấy và hiểu rằng Chúa Giêsu là Chúa phục sinh, là thấy và tin rằng từ nay Người ở với chúng ta mãi mãi, rằng Người là Con người đã đi vào vinh quang của mình. Người sống và sống giữa chúng ta, vâng, trong chúng ta Maria Mađalêna đã "thấy" và đó là điều quan trọng: nhung chính những lời của Chúa mới gán cho việc hiện ra tất cả tầm mức, ý nghĩa của nó. (Xin xem tiếp bài sau).
(H. Van den Bussche, Jean. Paris, DDB, 1967. Tr. 540-549. )
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô chắc hẳn là điểm mà đức tin ta thường vấp phải. Lời Chúa hôm nay soi chiếu ta về ba thái độ giải thích việc ta gặp khó khăn trong niềm tin.
1. Ai tin vào Người thì được lãnh ơn tha tội nhờ Danh Người (bài đọc 1: Cv 10, 34a.37- 43). Nếu ta không tin bằng một niềm tin thay đổi cả đời ta, có lẽ vì ta chưa chịu nhìn nhận mình là tội nhân, và vì đó cảm thấy không cần được cứu độ. Thế mà quá trình của cuộc Vượt qua - được thực hiện ngày hôm nay - là như sau: nhìn nhận mình là tội nhân, chấp nhận việc được cứu độ nhờ một Đấng khác, nhờ Người ta được ơn tha tội, là ơn cứu độ tuyệt hảo.
2. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng hướng về những điều dưới đất (bài đọc 2: Cl 3, 1- 4). Ta bị dính chặt vào những điều khả giác, mắt thảy tai nghe, vào kỹ thuật máy móc, năng suất. Các thực thể vô hình, dù không chối bỏ, nhưng ta khó công nhận chúng là những yếu tố chi phốp cuộc đời ta. Tuy nhiên ta cũng cảm nghiệm rằng một lý tưởng nào đó có thể làm cho đời thêm đẹp, một tình yêu nào đó, kín đáo nhưng chắc chắn, có thể biến đổi và tái sinh. Chìa khóa và bí quyết đời ta là chính Thiên Chúa, là tình yêu sâu đâm của Ngài đối với ta: đó. là cuộc sống đích thực của ta, cuộc sống đã được ẩn tàng nơi Thiên Chúa.
3. Lời họ chưa hiểu lời Kinh Thánh (bài Tin mừng). Lời Chúa vẫn còn làm họ chưng hứng. Nhưng kể từ các sứ đồ, nhờ chứng tá của họ, qua sứ điệp của Giáo Hội được lưu truyền từ đời này sang đời khác, năng lực của Lời Chúa đã được chuyển đến cho ta. Sau cùng, chính Chúa Giêsu, Lời hằng sống của Thiên Chúa, mà ta phải quy chiếu; chính Lời Người mà ta phải xác tín: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống".
Ước gì Giáo Hội, là người đã dạy ta nói lúc hãy còn thơ ấu: tôi tin xác loài người ngày sau sống lại ", hôm nay cũng giúp ta nói lại điều đó qua kinh Tin Kính ta sắp đọc.
Ga 20: 1- 18
(xem thêm Chú Giải Phúc âm Chúa Nhật năm B và C. Thật ra bản văn phụng vụ chỉ gồm từ câu 1 đến 10. Nhưng chúng tôi xin trích dịch cả phần chú giải câu 11- 18 (không được đọc trong phụng vụ) để làm tài liệu học hỏi và để liên tục với phần chú giải Tin Mừng Chúa Nhật 2 Phục sinh (Ga 20, 19-31). Trong nguyên bản, tác giả (Van den Bussche) chú giải toàn thể chương 20 trong một bài với tựa đề "Việc Phục Sinh").
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Trong nhãn giới của Gioan, việc Sống lại có ý nghĩa nào? Đấng Phục sinh ra đi? trở lại? hay đến với các môn đồ Người?
2. Sự hiện diện của Đấng Phục sinh, theo Gioan có những tính cách gì?
3. Sáng ngày Phục sinh, việc khám phá dịch thực xảy ra lúc nào?
4. Thánh sử ngụ ý gì khi bảo: "Ông (người môn đồ dấu yêu) đã thấy và ông đã tin. Là vì họ chưa hiểu lời Kinh Thánh..." (c.8b- 9a)?
5. Maria Mađalêna có thật sự tin vào việc Phục sinh khi thấy Chúa hiện ra không?
6. "Đừng động đến Ta" (c. 17), lối dịch này có trung thành với nhãn giới của Gioan chăng? Phải thay thế bằng cách dịch nào?
7. "Vì Ta chưa lên cùng Cha Ta" (c. 17). Câu này đúng ra là lời của ai?
1. Ý NGHĨA TỔNG QUÁT CỦA BIẾN CỐ PHỤC SINH TRONG TM THỨ 4.
Trong tư tưởng Gioan, một chương về Phục sinh thuộc về bản chất của cuộc Tử nạn chặt chẽ đến nỗi thánh sử không dời việc tôn vinh Chúa Giêsu vào lúc sống lại mà là đặt nó ngay từ khi Người chịu treo thập giá. Việc phục sinh chẳng phải là một biến cố tiếp theo cái chết, nhưng là một yếu tố của Giờ được xét như một bản thể Giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha. Thánh sử mô tả giá trị mặc khải và giá trị cứu rỗi của Giờ đó không phải tiếp theo cuộc Phục sinh, song từ trước lúc Chúa Giêsu chết, vì thần học của ông bao gồm toàn thể các sự kiện. Ngay đầu diễn từ giã biệt, ông trình bày cho thấy Chúa Giêsu đang giải thích làm sao việv Người ra đi chẳng phải là ra đi nhưng là đến thật sự với môn đồ. Vì thế các lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh, đối với Gioan, không hẳn là những bằng chứng hộ giáo về thực tại Phục sinh cho bằng là những giai đoạn mặc khải trong đó biểu lộ ý nghĩa đích thực của việc Người ra đi: ra đi là đến với thuộc nhân của Người.
Ngay từ đầu, việc khám phá mồ trống (20, 1- 9) đã đòi hỏi cái nhìn đức tin. Nỗi lo sợ trộm xác, những lần di đi về về bồn chồn trọn con đường dẫn tới mộ, tất cả bầu khí của buổi sáng hôm đó chứng tỏ các môn đồ kính yêu sâu xa vị Thầy đã khuất - và có lẽ cũng đắng cay thất vọng trước sự sụp đổ của Vương quốc Thiên sai nhưng không mấy biểu lộ cho thấy là họ am hiểu đúng đắn mọi sự kiện. Sự hiểu biết này chỉ bùng lên trước mồ trống nhờ ánh sáng của đức tin và lời Kinh thánh mà thôi.
Sau đó là ba lần hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh, mỗi lần tương ứng với một ý hướng riêng biệt của Thánh sử. Cả ba đều đặt dưới dấu hiệu sự hiện diện của Chua Giêsu. Ca nhập lễ Phục sinh tóm tắt chúng như sau: "Ta đã sống lại và còn ở với chúng con!": Hay đúng hơn: Chúa Giêsu đã sống lại và chỉ bây giờ Người mới thực sự ở với thuộc nhân của Người. Thánh sử đào sâu sứ điệp đó theo phương pháp vòng đồng tâm của ông. Cho Maria Mađalêna, Chúa Giêsu mặc khải rằng sự hiện diện ngày xưa, xét cho cùng, chỉ là một sự cận kề, một sự hiện diện nửa vời, về phía Người cũng như về phía họ. Quả vậy, sự hiện diện lúc đó của Người còn mặc hình thức che dấu, chưa phát lộ trong chiều kích đích thực và tròn đầy. Giờ đây nó mới thực bày tỏ ra. Với người, sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa đã được thể hiện (20, 10- 18).
Sự hiện diện ấy từ lúc này cũng tràn đầy hiệu lực. Suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã hoàn thành nhiều công việc và phép lạ để chuẩn bị sơ bộ cho việc Người đến lần sau cùng với tư cách Thiên sai mà hôm nay đã bắt đầu. Giờ đây, Chúa Giêsu đang ở trong chức vụ Con Người, này Người đã trở thành Con Thiên Chúavới quyền năng (Rm 1, 4), này Vương quốc đã đến (Mc 9, 1), này là thời của những công việc còn vĩ đại hơn các việc đầu tiên (1, 50- 51 ; 5, 20 ; 14, 12). Trên môn đồ đang tụ họp, người thổi Thần khí để ban cho họ quyền năng giải phóng thế gian khỏi ách nô lệ tội lỗi (20, 19- 23).
Và sau cùng, Chúa Giêsu hiện ra với Tôma (Ga 20, 24-29). Thánh sử kể lại sự kiện bất ngờ này chẳng phải để giảm uy tín bạn đồng liêu nhưng chỉ vì cái câu kết luận: Phúc cho ai không thấy mà tin! Sự hiện diện của Chúa Giêsu đâu dành cho những kẻ mà ta thường nghĩ là hạng ưu đãi của giờ đầu tiên, những kẻ đã được thấy người sống động thực. Không! Mọi thế hệ Kitô hữu đều sẽ có thể sống sự hiện diện của Chúa Giêsu, cũng trực tiếp như Tôma và mấy môn đồ khác. Các độc giả đầu nên của cuốn Tin Mừng này đều thuộc về thế hệ thứ hai và thứ ba, nhưng họ không chịu thua những người đi trước. Chúa cũng ở với họ, trực tiếp và hiệu lực không kém gì.
Chúa Giêsu đã công bố trước Đại Công nghị rằng từ nay thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự bên hữu quyền năng và đến trên mây trời (Mt 26,24; Mc 14,62; Lc 22,69). Lời ấy, trong, tư tưởng Gioan, được thực hiện rõ ràng trong các lần hiện ra sau Phục sinh. Cuộc Quang lâm, tực sự hiện diện của Thiên Chúa mà ngày Chúa Giê-su trở lại sẽ hữu hình hoá, từ nay đi vào trong trật tự các thực tại vô hình: nó biểu lộ một cách thoáng qua trong những lần hiện ra. tuy nhiên không vì thế mà gạt bỏ niềm mơ ước một cuộc trở về hữu hình. trái lại, việc Chúa Giê-su hiện diện trong Giáo Hội là bảo chứng chắc chắn nhất của việc Người trở lại trong vinh quang. Các tín hứa bấy giờ sẽ thấy vinh quang mà nay đã được chia sẻ cho (17,22-24), bấy giờ sẽ tỏ lộ ra bản tính Con Thiên Chúa của họ, bản tính họ đã được từ lúc này đây (1 Ga 3, 1-2). Các cuộc hiện ra của Đấng phục sinh đã có đó để bảo đảm không hẳn sự sống lại cho bằng là sự hiện diện bền lâu của Chúa Giêsu. Chúa đã hiện ra cho các môn đồ đầu tiên, chính Người cũng ở trong Giáo Hội đến tận cùng thời gian, đến ngày sẽ thực sự biểu lộ trong vinh quang sung mãn tước vị Con Người của Người. Nói theo ngôn ngữ chuyên môn, đó là thực hiện trước cuộc cánh chung (eschatologie mticipée). Mối hy vọng, nỗi mong chờ ngày Quang lâm, Gioan chuyển thành sự chắc chắn - chắc chắn theo đức tin, dĩ nhiên rồi? "trạng huống của thời sau hết từ bây giờ đã được thể hiện, tuy nhiên vẫn không loại trừ một nỗi ngong ngóng đợi chờ cuộc Quang lâm hữu hình. Người Kitô hữu nào mong mỏi ngày tận cùng tất nhiên cũng hy vọng và ao ước sự hoàn thành sau hết, ao ước cái lúc mà Thiên Chúa sẽ trở nên mọi sự trong mọi người (1 Cr 15,28).
Sau cùng các cuộc hiện ra đó chỉ là áp dụng, vẽ ra, cụ thể hóa những gì Chúa Giêsu đã nói và lặp đi lặp lại trong diễn từ giã biệt. Việc ra đi của Người mặc ý nghĩa đầu tiên là đến cùng Cha, và ý nghĩa thứ hai tương ứng với ý nghĩ thứ nhất, là về gặp lại các môn đồ. Và đó không phải là một cuộc trở về tạm bợ, một buổi tái ngộ mau qua làm như để an ủi, song là việc đến thực sự, dứt khoát, chất chứa sự hiện diện trọn vẹn và tràn đầy hiệu lực của Thiên Chúa. Quả vô ích khi lấy lại mọi bản văn lần nữa; chỉ cần đọc lại 14, 12- 24, 16, 16- 27 ; 17, 20- 24. Hai trong ba cuộc hiện ra có một từ ngữ chủ chốt: Chúa Giêsu "đã đến " hay "đến" (20, 19.24.26). Đấy chính là đề tài của toàn chương. Việc Chúa Giêsu đến như thế mặc ý nghĩa nào? Các trình thuật không được viết ra để thỏa mãn cái khoái kể chuyện: Chúng đáp lại một ý định thần học; chúng minh giải thần học về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thời gian nằm giữa việc Người đến thực sự (việc Người ra đi) và việc Người trở lại vinh quang.
Dù nặng chất thần học đến đâu, các trình thuật này vẫn không kém sống động. Chúng chẳng những nói lên một kinh nghiệm sống động phi thường trong mọi chi tiết, mà còn đặc biệt diễn tả lột cảm giác ngỡ ngàng còn kéo dài mãi về sau. Chúng thật sự làm sống lại cuộc khám phá sau đây: phục sinh có nghĩa là Chúa Giêsu hiện diện mãi mãi. Cùng với các môn đồ đầu tiên, chính độc giả cũng cảm nhận được cú va chạm mở tung cho mình sự hiểu biết trong đức tin. Một bút pháp rời rạc, một diễn từ trực tiếp, một mở hỗn tạp thì hiện tại và bán quá khứ, từng ấy các yếu tố đều góp phần làm nổi bật cách mạnh mẽ cảm thức của một kinh nghiệm sống. Thánh sử đã sống trong bao năm trường sự hiện diện của Chúa Kitô; thế nhưng ông vẫn không quên được ấn tượng của giây phút ban đầu ấy. Với tài khéo léo đã lừng chứng ló nhiều nói khác, ông giữ lại được ở đây giây phút của sự' khám phá đó, giây phút duy nhất trong muôn ngàn. Các trình thuật làm ta bỡ ngỡ vì tính chất tươi mát, vì bút pháp trực tiếp, vì nồng độ tình người của chúng. Dù chú tâm chiêm ngửng trong đức tin cái thực tại sâu xa của việc Thiên Chúa hiện diện qua các biến cố, bản văn vẫn không vì đầy tính trở thành một suy tư thần học. Chúa Giêsu đứng đó, thình lình, trước mặt những con người đích thực, và lộ những phản ứng đầy tính chất người đến nỗi về sau có kẻ trách là không mấy hợp lý. Chúa Giêsu tỏ ra rất nhân bản, ân cần và đầy vẻ khôi hài... đến nỗi vài nhà phê bình dã từng cho rằng Tin Mừng này là một khái luận thần học, cũng nói đến tính khôi hài của Người! Ngay cả lúc ấy, Ngôi lời vẫn nhập thể; nhưng chỉ lúc ấy, sự hiện diện thần hình trọn vẹn nới trở thành một thự( tại nhân loại mãi mãi.
2. MỒ TRỐNG (20: 1- 9)
Lễ Vượt qua Do thái trôi đi mà chẳng ai bàn đến ngôi mộ bị niêm phong của Chúa Giêsu. Đối với các môn đồ, đại lễ ấy thật là rnột lễ buồn thảm. Mộng vàng tan mây! Người mà thiên hạ tưởng là Đấng Messia nay nằm dưới ba tấc đất. Câm lặng, họ nhìn đống tro tàn hoài bão của mình. Chúng tôi đã hy vọng... các môn đồ làng Emmau sẽ nói thế (Lc 24, 21).
Ngày đầu tiên ấy của tuần lễ chỉ một nhịp mới trong trật tự thời gian: nó sẽ trở thành Ngày của Chúa (Kh 1, 10). Đó là ngày thứ ba sau vụ xử đóng đinh. Các phụ nữ đã có mặt bên thập giá (Mc 15,47 và song song ; Ga 19,25) đi đến mồ theo thói quen, để xức thuốc thơm (Mc 16,1 và ss). Gioan chỉ kể tên Maria Mađalêna, nhân vật chính của lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đầu tiên ; bà cũng là kẻ được Tin Mừng Nhất lãm xướng danh trước hết: chắc hẳn vì là người hoạt động nhất. Khi nghe người thanh niên đứng trong mồ trống báo tin là Chúa đã sống lại và nói các bà đi báo tin cho Phêrô và các môn đệ của Người.
Không tìm gì hơn, Maria vụt bỏ chạy. Bà đi báo động cho đội tiền phong của nhóm nhỏ môn đồ: Phêrô và người môn đồ dấu yêu Hai kẻ này đã từng đấu tranh để dành chỗ nhất biết mấy! Trình thuật chúng ta là một tiếng vọng xa xôi của mối tranh chấp giữa họ. Người môn đồ yêu dấu đã theo Chúa Giêsu trước Phêrô (1,37-40). Nếu ông này đã là phát ngôn viên của cả nhóm trong một giây phút khủng hoảng (6,68-69), thì Gioan vẫn là người môn đồ thân thiết nhất, gần gũi nhất với Chúa Giêsu trong bữa Tiệc cuối cùng (13,23), bữa tiệc mà Phêrô chỉ được cái là xử trí sai lầm. Tính táo bạo thiếu suy nghĩ của Phêrô còn lộ liễu ở vườn Ghetsêmani, nơi mà nhát kiếm vô ích của ông cho thấy ông kém thông minh rõ ràng (18, 10- 11). Và khi đến giây phút quyết định thì ông lại chối Chúa Giêsu (18, 17). Người môn đồ dấu yêu trái lại đứng kề thập giá và được Chúa Giêsu trao phó mẹ người cho (19,25). Nếu xét khách quan kỹ lương, thì ông này là kẻ xứng đáng cầm đầu nhóm nhất. Người đồ đệ ấn hành tác phẩm Gioan quả không lầm về điểm đó: nịnh thuật việc trao quyền cho Phêrô cố ý "hóa giải " ba lần chối Chúa và Phêrô ảnh như cũng bỡ ngỡ thấy mình được cho đứng trên người môn đồ dấu yêu (21, 15-22). Chúng ta đừng quên rằng đây là một sự tuyển chọn.
Cuộc chạy bộ đến mồ buổi sáng phản ảnh mối tranh chấp xa xưa kia. Vị thánh sử hồi tưởng chuyện cũ không một chút oán hờn. Việc rong ruổi trong buổi rạng đông đó còn sống động trong trí ông đến nỗi những tình cảm vô thức hồi xảy ra biến cố tự nhiên tái xuất hiện. Hai ứng cử viên quyền tối thượng đều được Maria Mađalêna báo đông với những từ ngữ ngụ ý việc trộm xác. Maria nói Chúa Giêsu là Chúa, theo nghĩa là rabbi: Thầy (x.20,13); nhưng chính sử lại gán cho hạn từ ấy cái nghĩa nó sẽ mặc về sau trong các lời tuyên tín: nhờ việc Phục sinh, Chúa Giêsu trở thành vua và được sử dụng quyền tài phán cánh chung. Maria thêm: Chúng tôi không biết họ đặt Người ở đâu... Tiếng số nhiều "chúng tôi" có thể xem như là một hình thức tập hợp chỉ các môn đồ, hay như một kiểu nói Sêmita, song có lẽ Maria nói nhân danh các phụ nữ đã đi theo với bà đến mộ. Phản ứng của bà bộc lộ lòng bà thương mến sâu xa: lần tiếp sẽ xác nhận điều đó.
Bắt đầu chạy! Người môn đồ dấu yêu đến mộ trước tiên. Phải chăng đó là dấu hiệu của một tình yêu lớn hơn đối với Thầy? Phải chăng là vì trẻ tuổi? Một vài nhà chú giải xưa bảo bang ông chạy nhanh hơn bởi lẽ không có gia đình. Hãy gác lại những vấn đề ông thòng ấy và hãy để cho đầu tóc trắng xóa của vị thánh sử già nua hưởng niềm vui tưởng nhớ thành tích của mình? Việc hơn thua đó cũng chẳng có ý nghĩa biểu tượng gì. Người ta đã muốn cho rằng Gioan tượng trưng Kitô hữu gốc lương dân, cởi mở hơn với đức tin, còn Phêrô tượng trưng cho Ki-tô hữu gốc Do thái, là những kẻ đầu tiên vào Giáo Hội mặc dầu đức tin thua kém. Nhưng vào trong mộ không phải là tin, và trình thuật hình như ngụ ý rằng Gioan, vào mộ sau cùng, lại đạt đức tin trước hết.
Tuy nhiên niềm vui tường thuật vẫn pha lẫn một chút gì đó. Thánh sử hình như còn tiếc nuối là đã không vào lập tức. Phải chăng ông chờ Phêrô vì kính trọng, vì tinh thần đồng đội? Chúng ta đừng phê phán Gioan với một cặp kính màu hồng như thế. Vài tác giả đã chẳng nghi ông sợ ma đó sao? ông chỉ cần kiểm nhận mồ mở và vài đãi vải là đủ để suy ra rằng Maria Mađalêna đã có lý. Mồ trống không còn là một lời đồn đãi (Mc 16, 11. 13 ; Lc 24,22-23) vì sự kiện được xác nhận bởi hài chứng nhân. Công chứng này sẽ có ích về sau khi phải chống lại tin đồn người Do thái tung ra là chính các môn đồ đã đánh cắp xác (Mt 27, 64 ; 28, 12- 15).
Nhưng này Phêrô đến! ông đi vào trong mộ. Đây mới là lúc khám phá thực sự. Trong trường hợp trộm xác, ngôi mộ hẳn lộn vô cùng; thế mà dải vải, khăn liệm đều được cuốn lại gọn gàng, đâu vào đấy. Anh sáng chợt bùng lên trong trí của người môn đồ dấu yêu. Chuyện xảy ra trước mắt làm ông nhớ lại lời Kinh thánh, lời Chúa Giêsu vẫn nhắc tới thường xuyên. Bí mật được giải đáp. Không cần phải nhìn sự kiện cụ thể mới thấu hiểu được trong đức tin ; Kinh Thánh cũng có thể soi sáng cho những ai không thấy chính các sự kiện (20,29). Gioan ám chỉ lời Kinh thánh nào? Ta không rõ. Chỉ biết cộng đoàn Kitô hữu sơ khai có nhắc tới một vài Thánh vịnh, chẳng hạn như Tv 16,8-11 trong Cv 2, 24-31 ; Tv 2,7 trong Cv 13,32-37. Chính Chúa Giêsu sẽ lấy ánh sáng Kinh thánh giải thích việc phục sinh của Người (Lc 24,25-26.32.44.46). Lời rao giảng cổ kính nhất cũng có nại đến Thánh Kinh (1Cr 15,4).
Gioan chẳng bảo người môn đồ có thể lộ cho Phêrô cái trực giác đức tin đầu tiên của mình hay không; thế nhưng trình thuật xem ra ngụ ý điều đó. Phêrô có chia sẻ trực giác ấy chăng? Chúng ta không thể suy ra được. Dầu sao chính Chúa Giêsu đã phải củng cố và tăng cường đức tin chớm nở ấy. Tuy nhiên đức tin này, từ giờ trở đi có một đối tượng rõ ràng: Chúa Phục sinh.
Người môn đồ thấy và tin: nét nghịch lý của cuộc Tử nạn đã tìm được lời giải nghĩa. Tất cả đều đáp lại ý hướng của Thiên Chúa diễn tả trong Thánh Kinh. Vị thánh sử già nua mỉm cười hồi tưởng đức tin chớm nở ấy, nhớ làm sao mình đã là người đầu tiên linh cảm chân lý. Nhưng bây giờ ông cần phải đưa độc giả của ông đến, sự hiểu biết trong đức tin đó, làm cho họ hiểu lâu nhớ kỹ như ông ý nghĩa của cuộc phục sinh đối với họ: đó là một sự hiện diện tròn đầy hữu hiệu và thường xuyên của Chúa.
3. MARIA MAĐALENA (20: 10-18).
Giữa lúc ấy, Maria Mađalêna trở lại mồ. Bản văn hình như ngầm bảo hai môn đồ còn ở đó. Nhưng họ bỏ bà và ra về. Phải chăng các ông đã không chia sẻ cho Maria mối linh cảm của mình, hay bà vẫn thờ ơ với chuyện ấy?
Bà đến để than thở theo tục lệ, thành ra vẫn đứng khóc cạnh mồ, mặc dầu xác chẳng còn bên trong. Nước mắt bà chứng tỏ lòng quyến luyến sâu xa. Nhưng đây đâu phải là nơi tuôn đổ giọt lệ nhân trần? Chúng làm cho Maria không thấy rõ ràng trong ngôi mộ trống. Người môn đồ yêu dấu đã chỉ cần nhìn là đủ tin, vì nhớ lại lời Kinh Thánh.
Phần Maria, phải có sự trợ lực của hai thiên sứ. Thật là một cuộc hiện ra rất gợi hình: họ mặc áo trắng, như thói quen của các nhân vật thiên quốc (Mc 9,3 và ss; 16,5 và ss: Cv 1, 10 ; Kh 3, 4-5 ; 4, 4). Nhị vị ngồi hai đầu nơi đã đặt xác Chúa Giêsu (Lc 24, 4): nghĩa là thực tại thiên giới muốn phân định đâu là nơi đã an táng Người. Dấu hiệu này lẽ ra đủ cho Maria hiểu. Nhưng một lần nữa, phản ứng nhân loại của bà lại cản trở sự hiểu biết của đức tin. Đáp câu hỏi của thiên thần, bà trút cả nỗi niềm xao xuyến và như vậy cho thấy chẳng hiểu gì trơn. Người ta đã cất xác Chúa bà và không biết họ đặt Người ở đâu. Trên miệng bà, tiếng Chúa có nghĩa là Thầy yêu dấu. Nhưng đối với thánh sử và độc giả, đó là Đấng Phục sinh. Song Mana còn khuya mới nghĩ tới chuyện sống lại! Đấy là chủ đề "ngộ nhận" trong Gioan (.x. 11, 23-24).
Vì sự thể như vậy, nên chính Chúa Giêsu phải đích thân xuất hiện... thế mà bà'vẫn chưa nhận ra Người? Chẳng phải bởi trời còn mờ tối; song vì như hai môn đồ làng Emmau, mắt bà cũng bị "bưng bít" không thể nhận ra Người được. Chúa Giêsu Phục sinh chỉ hiển lộ rõ ràng cho những ai có đôi mắt được niềm tin mở rộng (Lc 24,16; x.Ga 21,4; Lc 24,37; Mc 16,12). Thế mà Maria còn lâu mới nghĩ đến chuyện sống lại. Cho dù có thật sự phục sinh vẫn là một chân lý đức tin. Đừng tưởng Đức Giê-su hoá trang thành kẻ làm vườn. Maria, vì chỉ biết phản ứng theo kiểu nhân loại, nên không thể nhận ra Người, và vì đang ở trong một thửa vườn, nên bà tưởng Chúa Giêsu là một người làm vườn nào đó.
Cũng câu hỏi lúc nãy được nêu lên: "Tại sao bà khóc?". Một lần nữa, Mana lại để trào ra nỗi thất vọng của mình cách mãnh liệt hơn. Bà muốn tìm xác. Phải chăng người làm vườn đã di chuyển? Bà muốn mang nó đi chôn cất ở một nơi mà bà có thể đến khóc thương mãi mãi. Bà tìm một kẻ chết, trong lúc Người lại sống!
Bà không nhận ra Chúa Giêsu, nhưng Người, Người biết bà quá rõ! Người gọi tên bà, như trước đây đã từng cho Nathanael thấy Người biết rõ ông (1,47- 48). Mắt bà sáng lên: Lạy Thầy! Tiếng rabbouni long trọng hơn "rabbi" và đặc biệt được dùng để gọi Thiên Chúa. Song Maria chưa đạt đến chỗ mà Tôma sẽ đạt tới sau khi rờ các vết thương (20, 8). Bà tràn ngập niềm vui, thế nhưng vẫn không nhận ra bản tính đích thực của Thầy. Bà nghĩ là Người đã trở lại. Ba ngày vừa qua chỉ là một cơn ác mộng ghê gớm. Sự sống có thể tiếp tục. Vì Thầy vô vàn kính yêu nay lại trở về.
Nhưng Chúa Giêsu không phải trở về! Cuộc Khổ nạn và cái chết của người đâu bỉ hủy bỏ, biến thành một thứ ảo giác! Đây không phải là Người trở về, song là đến: chỉ giờ phút này ta mới có thể bảo thật rằng Chúa Giêsu đến. Xưa kia, các môn đồ đã theo Người mà không hiểu Người; họ đã hoan hô Lời Người, đã phấn chấn vì phép lạ người, đã há hốc nhìn người như nhìn một kỳ quan của thế giới. Nhưng rốt cục Người vẫn xa lạ đối với họ, như quả thật Người đã xa lạ. Không bao giờ bạn hữu Người đã đi sâu vào bản tính đích thật của Người, đến tận Cha trong Người. Họ chỉ thấy Người ngoại diện. Nhưng bây giờ, Người ở bên họ, hoàn toàn là Người. Do đấy cái mà ta gọi là cuộc trở về của người thật ra là việc Người đến (Ga 14,3.18.23; 16,16.22.27).
Đừng cầm Ta lại như thế. Maria, trong niềm vui tái ngộ, ôm chầm lấy chân Chúa Giêsu, theo kiểu đông phương. Bà muốn kéo dài những giây phút gặp gỡ này. Nhiều người dịch: "Đừng động đến Ta", như thể Đấng Phục sinh cảm thấy bị xúc phạm vì người trần chạm tới. Vậy Tôma thì sao?... Không phải Đấng Phục sinh bị tổn thương, nhưng là đức tin của Maria Mađalêna: nếu Chúa Giêsu để bà làm, bà sẽ càng chìm sâu vào ngộ nhận... Vì Ta chưa lên cùng Cha Ta, Chúa Giêsu bảo, và tiếng này có giá trị cho bà hơn là cho Người. Đối với bà, Chúa Giêsu chưa phải là Đấng đã trở về cùng Cha.
Vì trong tư tưởng Gioan, việc sống lại không phải là một chặng trên con đường dẫn từ mồ đến nơi trú ngụ thiên quốc. Cái chết của Chúa Giêsu là thăng thiên: việc hiện ra của Đấng Phục sinh có mục đích làm cho các môn đồ hiểu rằng cái chết của Người thực ra là một cuộc thăng thiên và thăng thiên thực ra là việc Người đến với môn đồ. Maria bấu víu Người, không cho Người lên với Cha là vô ích: Người đã ở bên chúa Cha rồi. Cử chỉ của Maria muốn kéo dài một sự hiệp thông nhân loại vô nghĩa và vô dụng. Trong tâm trí bà, Chúa Giêsu còn ở trên trần gian và đã không có việc trở về với Cha. Bởi thế Chúa Giêsu dùng những hạn từ nhân ái mà bà hiểu được và bảo với bà rằng người đang lên cùng Cha. Nhưng bà cần phải đi vào và đào sâu sự hiểu biết các biến cố ấy trong đức tin. Bà phải hiểu rằng cuộc hiện ra đây chỉ là sự biểu lộ nhất thời của một trạng huống đã thực hiện dứt khoát rồi. Chúa Giêsu ở với Cha; là hình ảnh của Cha, Chúa Giêsu cũng ở với thuộc nhân, bằng một sự hiện diện vô hình, nhưng xác thực và hữu hiệu.
Maria thấy mình được trao nhiệm vụ mang đến cho các môn đồ sứ điệp phục sinh của mọi thời: Ta lên cùng Cha Ta (từ nay trở thành) Cha các con. Có người đã muốn coi sứ điệp này là một sự phân biệt giữa tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, Con độc nhất, với từ của các tín hữu. Nhưng chẳng ai trong Tân ước, kể cả Gioan: hồ ghi. Sự khác biệt giữa tử hệ tự nhiên của Chúa Giêsu và tử hệ ân sủng của chúng ta cả (1, 13), nên đấy không phải là nội dưng chính yếu của sứ điệp trao cho Maria Mađalêna. Mục đích của nó chẳng phải là dạy các môn đồ biết họ là nghĩa tử, song là mặc khải cho họ thấy từ rày họ đích thực là con, rằng Cha Chúa Giêsu đã thực sự trở thành Cha của họ. Một khi ra đi, Chúa Giêsu làm cho Cha hiện diện sung mãn tràn đầy (14,21- 23). Vì thế mà chỉ bây giờ họ mới được ban danh hiệu "anh em": lúc này cùng với người, họ là con của Ta, sống sự sống thần linh mà Chúa Giêsu đã trở thành nguồn mạch đầu tiên (14. 19). Tử hệ ấy được thực hiện nhờ ân sủng, dĩ nhiên! nhưng không vì thế mà kém đích thực. Loài người cần phải được quyền trở nên con cái Thiên Chúa (1, 12), và họ phải đón nhận quyền ấy nhờ Thiên Chúa sinh lại (1, 13 ; 1Ga 3,1 -2). Sứ điệp phục sinh nhắm tới chân lý đó, nhắm tới việc thể hiện có tính cách cánh chung của phụ tính thần linh: Cha yêu loài người như yêu Con (16, 27); loài người được thâu nhận với Con vào tình yêu phụ tử của Thiên Chúa. Tử hệ của Chúa Giêsu làm cho tử hệ của loài người thành tựu. Vì Cha chỉ yêu trong Con những ai yêu Cha trong Con (16, 27).
Như thế sứ điệp phục sinh tóm kết diễn từ giã biệt và công bố sự hoàn thành của diễn từ đó. Nó.cũng đồng thời loan báo rằng lời hứa Cựu ước, chứa đựng trong công thức giao ước sau đây, đã thực hiện: Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Bởi vì từ nay Thiên Chúa là Cha, nên giao ước đã đạt tới mức độ thể hiện cao nhất. Phụ tính của Thiên Chúa theo giao ước xưa, chỉ là lời hứa một sự hiện diện bảo vệ, cứu giúp. Từ nay đó là một sự hiện diện nội tâm, thường xuyên và hiệu lực tộ độ (Ga 14, 23 ; 1, 14 ; 2, 21- 22 ; 4, 21- 24): Giavê "Ta là" của lời hứa đã trở thành, trong Giêsu, Đấng "Ta là" vĩnh viễn (8,24-28). Thiên Chúa đã thật sự trở thành Thiên Chúa của họ, bởi vì thần tính của Ngài được thể hiện trong phụ tính của Ngài.
Vững mạnh nhờ sứ điệp nên Maria, vốn là người đầu tiên đã báo động anh em, rày có thể đi trấn an họ. Không một chữ nào về phản ứng của bà trước lời Chúa Giêsu (x.Lc 24,11- 22). Trình thuật chẳng có để mô tả trường hợp Maria Mađalêna, nhưng là để mang một sứ điệp cho mọi tín hữu. Vì thế Maria phải lập tức lên đường. Bà đã thấy Chúa.
Đối với thánh sử, thị kiến này vừa hữu hình vừa thiêng liêng. Chắc hẳn Maria đã không lãnh hội ngay tất cả ý nghĩa cuộc khám phá của mình. Trước tiên bà muốn loan báo mình đã thấy Thầy tận mắt (20,2. 1 3), nhưng đói với thánh sử, dùng lời ấy có một âm hưởng phục sinh. Các hạn từ "thấy và Chúa" nằm trong một viễn tượng Kitô giáo: đó là thấy và hiểu rằng Chúa Giêsu là Chúa phục sinh, là thấy và tin rằng từ nay Người ở với chúng ta mãi mãi, rằng Người là Con người đã đi vào vinh quang của mình. Người sống và sống giữa chúng ta, vâng, trong chúng ta Maria Mađalêna đã "thấy" và đó là điều quan trọng: nhung chính những lời của Chúa mới gán cho việc hiện ra tất cả tầm mức, ý nghĩa của nó. (Xin xem tiếp bài sau).
(H. Van den Bussche, Jean. Paris, DDB, 1967. Tr. 540-549. )
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô chắc hẳn là điểm mà đức tin ta thường vấp phải. Lời Chúa hôm nay soi chiếu ta về ba thái độ giải thích việc ta gặp khó khăn trong niềm tin.
1. Ai tin vào Người thì được lãnh ơn tha tội nhờ Danh Người (bài đọc 1: Cv 10, 34a.37- 43). Nếu ta không tin bằng một niềm tin thay đổi cả đời ta, có lẽ vì ta chưa chịu nhìn nhận mình là tội nhân, và vì đó cảm thấy không cần được cứu độ. Thế mà quá trình của cuộc Vượt qua - được thực hiện ngày hôm nay - là như sau: nhìn nhận mình là tội nhân, chấp nhận việc được cứu độ nhờ một Đấng khác, nhờ Người ta được ơn tha tội, là ơn cứu độ tuyệt hảo.
2. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng hướng về những điều dưới đất (bài đọc 2: Cl 3, 1- 4). Ta bị dính chặt vào những điều khả giác, mắt thảy tai nghe, vào kỹ thuật máy móc, năng suất. Các thực thể vô hình, dù không chối bỏ, nhưng ta khó công nhận chúng là những yếu tố chi phốp cuộc đời ta. Tuy nhiên ta cũng cảm nghiệm rằng một lý tưởng nào đó có thể làm cho đời thêm đẹp, một tình yêu nào đó, kín đáo nhưng chắc chắn, có thể biến đổi và tái sinh. Chìa khóa và bí quyết đời ta là chính Thiên Chúa, là tình yêu sâu đâm của Ngài đối với ta: đó. là cuộc sống đích thực của ta, cuộc sống đã được ẩn tàng nơi Thiên Chúa.
3. Lời họ chưa hiểu lời Kinh Thánh (bài Tin mừng). Lời Chúa vẫn còn làm họ chưng hứng. Nhưng kể từ các sứ đồ, nhờ chứng tá của họ, qua sứ điệp của Giáo Hội được lưu truyền từ đời này sang đời khác, năng lực của Lời Chúa đã được chuyển đến cho ta. Sau cùng, chính Chúa Giêsu, Lời hằng sống của Thiên Chúa, mà ta phải quy chiếu; chính Lời Người mà ta phải xác tín: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống".
Ước gì Giáo Hội, là người đã dạy ta nói lúc hãy còn thơ ấu: tôi tin xác loài người ngày sau sống lại ", hôm nay cũng giúp ta nói lại điều đó qua kinh Tin Kính ta sắp đọc.
Noel Quession - Chú Giải
Ga 20:1 -9
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần...
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu...một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Bà Maria Mác-đa-la đến mộ, lúc sáng sớm, khi trời còn tối.
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra "biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mác-đa-la. Ong gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Bà thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn "đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chtía đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?".
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ i được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông và đã tới mộ trước.
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình... để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24-18,12-16-21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thướng này?
Ong cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ong Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ong vào thẳng trong mộ, thấy băng vải để ớ đó, và khăn che đầu Đức Gíêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó".
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ong đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Lu ca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết" (Lc 24,12).
Maria Mác-đa-la đã giải thích theo kiểu nhân loại: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ong đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn... Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu... trước Phêrô (Ga 21, 7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu"... Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra" và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua "cái thấy được", để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ong tin... dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật... là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai... Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện "mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng", chỉ những ai "yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế..
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: "Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết".
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2 ; Tv 2,7 ; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống... Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần...
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu...một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Bà Maria Mác-đa-la đến mộ, lúc sáng sớm, khi trời còn tối.
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra "biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mác-đa-la. Ong gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Bà thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn "đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chtía đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?".
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ i được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông và đã tới mộ trước.
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình... để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24-18,12-16-21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thướng này?
Ong cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ong Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ong vào thẳng trong mộ, thấy băng vải để ớ đó, và khăn che đầu Đức Gíêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó".
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ong đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Lu ca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết" (Lc 24,12).
Maria Mác-đa-la đã giải thích theo kiểu nhân loại: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ong đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn... Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu... trước Phêrô (Ga 21, 7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu"... Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra" và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua "cái thấy được", để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ong tin... dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật... là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai... Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện "mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng", chỉ những ai "yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế..
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: "Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết".
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2 ; Tv 2,7 ; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống... Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
Giáo phận Nha Trang - Chú Giải
" Người phải sống lạo từ cõi chết "
Ga 20: 1 - 9
I / Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Gioan thuật lại câu chuyện về ngôi mộ trống của Chúa Giêsu để minh chứng Chúa Giêsu đã sống lại sau ba ngày chết chôn trong mồ.
II / SUY NIỆM:
Trong câu chuyện Chúa Giêsu phục sinh đã được bốn thánh sử diễn tả: Mt 28, 1 - 10 ; Mc 16, 1 - 8 ; Lc24, 1 - 12 ; Ga 20, 1 - 9. Nhưng mỗi người trình bầy theo nhãn giới của mình. Ơ đây thánh Gioan trình bày cốt để xác định về thiên tính của Chúa Giêsu. Vì thế, qua cách diễn tả những sự kiện về ngôi mộ trống, thánh Gioan muốn quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại và trở về với Chúa Cha.
1 / " Ngày đầu tuần Maria Madalena đi ra mộ...":
+ Ngày đầu tuần hay cũng gọi chiều ngày Sabát ( Mt 28, 1 ) hoặc hết ngày Sabát ( Mc 16, 1 ), hoặc ngày thứ nhất trong tuần ( Lc24, 1 ). Tuy cách diễn tả khác nhau nhưng ý nghĩa đều có ý diễn tả ngày khởi đầu trong tuần theo kiểu gọi ngày của Cựu ước, còn cách gọi " ngày Chúa nhật " chỉ bắt đầu dùng từ sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Vì thế ngày Chúa nhật bây giờ là ngày của Chúa.
+ " Maria Madalêna": các Tin Mừng nhất lãm nêu tên Maria Madalena trước các phụ nữ khác, còn Gioan ở đây chỉ nêu tên một mình Madalena. Điều này chứng tỏ Madalena giữ vai trò quan trọng trong biến cố Chúa phục sinh, vì bà là người đầu tiên thấy ngôi mộ trống và về báo tin cho Gioan và Phêrô đang khi các phụ nữ khác đến sau và về báo tin cho các tông đồ và các môn đệ khác ( Lc24, 10 ).
+ " Từ sáng sớm khi trời còn tối": về thời gian lúc các phụ nữ đến mộ, các thánh sử diễn tả khác nhau: Mt 28, 1 " Ngày bắt đầu sáng - Mc 16, 2 " Mặt trời hé mọc" - Lc24, 1 " Vừa tảng sáng", còn đối với Gioan ở đây, trong quãng thời gian chuyển tiếp giữa bóng tối và ánh sáng, ông nhấn mạnh đến bóng tối " Lúc trời còn tối" chi tiết khác nhau cho thấy rằng nơi Mt và Mc, ta được chứng kiến sự vươn lên của ánh sáng phục sinh, còn nơi Gioan bóng tối vẫn còn bao phủ trái đất mà sự sống là Chúa Giêsu, đã an nghỉ trong suốt ngày Sabát, dầu vậy ta đã ling cảm được trước ánh sáng đã gần tới.
+ " Bà thấy tảng đá được lăn ra ngoài mồ": ở đây muốn nói Madalena đã chứng kiến sự việc mồ trống thực, vì hòn đá lấp cửa mồ đã lăn ra ngoài, khiến những ai đã chứng kiến cũng đều nhận thấy rõ mồ đã trống rồi.
+ " Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô...": ở đây nói lên vai trò đặc biệt của Phêrô, là đầu Giáo Hội, người cần biết rõ và biết trước mọi người về việc Chúa Giêsu phục sinh.
+ " Người môn đệ khác được Chúa yêu mến": ở đây Gioan muốn đồng hoá rõ ràng: " Người môn đệ khác " với " Môn đệ Chúa yêu" vì hai cách gọi này đều chỉ về Gioan tông đồ. Hơn nữa Gioan thường có thói quen không nhắc đến tên mình, nên đã gọi mình theo kiểu đó.
2 / " Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ":
Khi thấy mồ trống, Madalena không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Chúa đã báo trước mà bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là có ai đã lấy xác Thầy mình khỏi mồ.
" Chúng tôi không biết ": chữ " Chúng tôi" chứng tỏ Madalena không đi ra mồ một mình, nhưng cùng đi với các bà khác nữa ( Mt 28, 1 ).
3 / " Phêrô và môn đệ kia đi ra mộ":
Khi được báo tin mộ trống, hai ông không bàn hỏi gì với Madalena nhưng đã vội vã chạy ra mộ, điều này chứng tỏ lòng nhiệt thành và trách nhiệm của hai ông đối với việc Chúa Giêsu sống lại.
4 / " Môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mộ trước ":
Gioan chạy nhanh hơn và đến mộ trước vì ông còn trẻ và nhất là do sức mạnh của tình yêu đã thúc đẩy ông.
5 / " Ông cúi mình xuống thấy những khăn niệm còn đó":
+ Khăn niệm: tấm vải lớn bao toàn thân xác Chúa Giêsu ( tấm khăn này còn được giữ lại tại nhà thờ thánh Gioan ở Turin Bắc Ý ).
+ " Nhưng ông không vào": có nhiều cách giải thích khác nhau: cách thông thường hơn hết cho rằng Gioan có lẽ đã chờ Phêrô vì địa vị tối cao của Phêrô trong đoàn tông đồ. Tuy nhiên cách giải thích đơn giản hơn cả cho rằng: vì bàng hoàng trước cửa mộ rộng mở và những dải khăn liệm còn ở dưới đất, nên Gioan đã chần chờ một vài giây phút trước sự kiện là lùng này và như vậy Phêrô đã đủ thời giờ bắt kịp Phêrô vốn tính nóng nảy nhiệt thành, nên có lẽ khi tới nơi ông đã nhanh chân chui vào mộ trước khi Gioan hết sững sờ.
6 / " Và thấy những giây băng nhỏ để đó... ":
Bên trong mộ các khăn liệm vẫn còn, khác với Lazarô khi ông sống lại ( Ga 11, 43 ). Chúa Giêsu không cần đến sự giúp đỡ của con người như Người đã lăn tảng đá đóng kín mộ thế nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm khăn phủ mặt thế ấy.
Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết cho rằng xác Chúa Giêsu bị đánh cắp, vì không lẽ những người trộm xác lại có thể nghĩ đến việc trấn lột xác chết như vậy.
7 / " Ông thấy và ông tin":
Sự kiện khăn liệm và khăn che mặt còn đó là một dấu chỉ Chúa sống lại. Thự vậy, mới qua dấu chỉ này thôi Gioan đã tin ngay là Chúa sống lại rồi. Đây là đức tin sống động của Gioan. Nếu không cần thấy Chúa đích thân sống lại để tin, thì ông cũng đến sức mạnh của các dấu chỉ đó.
Ơ đây chứng tỏ Gioan đã không thực hiện hoàn toàn lời chúc phúc của Chúa Giêsu " Phúc cho ai không thấy mà tin" ( Ga 20, 29 ). Chỉ có mình Đức Maria, người đã tin ở con mình trước khi thấy phép lạ ( Ga 2, 3 - 5 ) là chứng tỏ một đức tin hoàn hảo đến độ Người không xuất hiện trong tất cả các biến cố này người đã không cần đến bằng chứng hoặc dấu chỉ nào để tin vào sự sống lại của con mình, Chúa Giêsu hiện ra với Mẹ Người sau khi sống lại là dẻ chia sẻ niềm vui và chiến thắng vinh quang của Con cho Mẹ hơn là làm bằng chứng.
+ " Vì chưng các ông còn chưa hiểu...": các ông chưa hiểu, dĩ nhiên là trước khi chứng kiến sự kiện xảy ra trong mộ. Điều này chứng tỏ Phêrô và Gioan tin Chúa sống lại vì bằng chứng trước mắt chứ không phải vì các ông đã nhận ra lời Kinh Thánh tiên báo.
III / ÁP DỤNG:
A / Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay trong ngày lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh để một đàng là làm sống lại niềm tin của chúng ta vào mầu nhiện Chúa phục sinh, đàng khác thúc đẩy chúng ta noi theo con đường tử nạn của Chúa Giêsu để hy vọng vào sự sống lại của mình sau này.
B / Áp dụng thực hành:
1 / Nhìn vào Maria Madalena:
+ Bà là người đã được Chúa Giêsu trừ bảy quỷ ( Mc 16, 6 ).
+ Bà đã cùng một số người khác theo các tông đồ đi giúp việc truyền giáo ( Lc8, 2 - 3 ).
+ Bà hiện diện dưới chân Thánh giá ( Mt 27, 56 ) và ở mồ Chúa Giêsu lúc tản sáng ( Mt 26, 61 ).
+ Bà được Chúa đích thân hiện ra và bà nhận ra Chúa khi Người gọi tên bà ( Ga 20, 11, 28 ).
Noi gương bà Madalena chúng ta cũng được Chúa giải thoát khỏi quỷ qua Bí tích Giải tội. Vậy ta hãy nhiệt thành phục vụ Giáo Hội, trong việc truyền giáo và tông đồ, cản đảm trong sự trung thành với Chúa khi gặp thử thách cũng như lúc may mắn...
2 / Nhìn vào Phêrô và Gioan:
+ Cả hai ông chạy đến mộ của Chúa trước khi Chúa sống lại, làm một sự thất bại và nỗi thất vọng cho các ông, nhưng sau khi Madalena báo tin, hai ông vội vã chạy đến mộ: chứng tỏ hai ông được khơi dậy niềm hy vọng qua dấu chỉ ngôi mộ trống của Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta có những lần thất bại đến tuyệt vọng. Hãy noi gương hai vị tông đồ biết đặt hy vọng vào Chúa sau những lần thất bại để tiếp tục công việc cho đến khi hoàn thành.
+ Ông thấy và tin: những dấu chỉ của ngôi mộ trống giúp Gioan tin và hiểu Thánh Kinh Lời Chúa soi đường chỉ lối cho ta, nhưng đôi những thực tại của cuộc sống giúp ta xác tín vào Lời Chúa hơn. Vì thế chúng ta tập thói quen lấy ánh sáng Lời Chúa soi chiếu vào mỗi thực tại để ta nhận ra ý Chúa qua các thực tại đó.
3 / Qua việc long trọng mừng lễ Chúa phục sinh:
Lòng trí Chúa hãy hướng tới những điều trên cao, đừng hướng về những điều dưới đất ( Cl 3, 1 - 4 ).
Năng lực thúc đẩy ta đón nhậ hy sinh là niềm vui phục sinh. Tin vào Chúa phục sinh là cửa mở để tin vào sự sống lại của mỗi người chúng ta, nhưng phải qua khổ nạn mới tới phục sinh.
4 / Ngay từ cuộc sống trần thế: người tín hữu đã sống trước phần nào mầu nhiệm phục sinh, tất nhiên vẫn còn phải sống trong tình trạng chờ đợi. Chúng ta sống mầu nhiện phục sinh bằng cách:
a) Nghe Lời Chúa: " Bấy giờ là chính lúc các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và những kẻ nghe thì sẽ được sống " ( Ga 5, 25 ).
b) Bằng cách thực hiện bác ái: " Chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống là vì chúng ta thương yêu nhau. Ai không thương yêu thì ở trong sự chết" ( 1Ga 3, 14 ).
c) Rước Mình Thánh: " Ta là bánh bởi trời, ai ăn bánh này sống đời đời " ( Ga 6, 50 ).
Ga 20: 1 - 9
I / Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Gioan thuật lại câu chuyện về ngôi mộ trống của Chúa Giêsu để minh chứng Chúa Giêsu đã sống lại sau ba ngày chết chôn trong mồ.
II / SUY NIỆM:
Trong câu chuyện Chúa Giêsu phục sinh đã được bốn thánh sử diễn tả: Mt 28, 1 - 10 ; Mc 16, 1 - 8 ; Lc24, 1 - 12 ; Ga 20, 1 - 9. Nhưng mỗi người trình bầy theo nhãn giới của mình. Ơ đây thánh Gioan trình bày cốt để xác định về thiên tính của Chúa Giêsu. Vì thế, qua cách diễn tả những sự kiện về ngôi mộ trống, thánh Gioan muốn quả quyết Chúa Giêsu đã sống lại và trở về với Chúa Cha.
1 / " Ngày đầu tuần Maria Madalena đi ra mộ...":
+ Ngày đầu tuần hay cũng gọi chiều ngày Sabát ( Mt 28, 1 ) hoặc hết ngày Sabát ( Mc 16, 1 ), hoặc ngày thứ nhất trong tuần ( Lc24, 1 ). Tuy cách diễn tả khác nhau nhưng ý nghĩa đều có ý diễn tả ngày khởi đầu trong tuần theo kiểu gọi ngày của Cựu ước, còn cách gọi " ngày Chúa nhật " chỉ bắt đầu dùng từ sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Vì thế ngày Chúa nhật bây giờ là ngày của Chúa.
+ " Maria Madalêna": các Tin Mừng nhất lãm nêu tên Maria Madalena trước các phụ nữ khác, còn Gioan ở đây chỉ nêu tên một mình Madalena. Điều này chứng tỏ Madalena giữ vai trò quan trọng trong biến cố Chúa phục sinh, vì bà là người đầu tiên thấy ngôi mộ trống và về báo tin cho Gioan và Phêrô đang khi các phụ nữ khác đến sau và về báo tin cho các tông đồ và các môn đệ khác ( Lc24, 10 ).
+ " Từ sáng sớm khi trời còn tối": về thời gian lúc các phụ nữ đến mộ, các thánh sử diễn tả khác nhau: Mt 28, 1 " Ngày bắt đầu sáng - Mc 16, 2 " Mặt trời hé mọc" - Lc24, 1 " Vừa tảng sáng", còn đối với Gioan ở đây, trong quãng thời gian chuyển tiếp giữa bóng tối và ánh sáng, ông nhấn mạnh đến bóng tối " Lúc trời còn tối" chi tiết khác nhau cho thấy rằng nơi Mt và Mc, ta được chứng kiến sự vươn lên của ánh sáng phục sinh, còn nơi Gioan bóng tối vẫn còn bao phủ trái đất mà sự sống là Chúa Giêsu, đã an nghỉ trong suốt ngày Sabát, dầu vậy ta đã ling cảm được trước ánh sáng đã gần tới.
+ " Bà thấy tảng đá được lăn ra ngoài mồ": ở đây muốn nói Madalena đã chứng kiến sự việc mồ trống thực, vì hòn đá lấp cửa mồ đã lăn ra ngoài, khiến những ai đã chứng kiến cũng đều nhận thấy rõ mồ đã trống rồi.
+ " Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô...": ở đây nói lên vai trò đặc biệt của Phêrô, là đầu Giáo Hội, người cần biết rõ và biết trước mọi người về việc Chúa Giêsu phục sinh.
+ " Người môn đệ khác được Chúa yêu mến": ở đây Gioan muốn đồng hoá rõ ràng: " Người môn đệ khác " với " Môn đệ Chúa yêu" vì hai cách gọi này đều chỉ về Gioan tông đồ. Hơn nữa Gioan thường có thói quen không nhắc đến tên mình, nên đã gọi mình theo kiểu đó.
2 / " Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ":
Khi thấy mồ trống, Madalena không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Chúa đã báo trước mà bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là có ai đã lấy xác Thầy mình khỏi mồ.
" Chúng tôi không biết ": chữ " Chúng tôi" chứng tỏ Madalena không đi ra mồ một mình, nhưng cùng đi với các bà khác nữa ( Mt 28, 1 ).
3 / " Phêrô và môn đệ kia đi ra mộ":
Khi được báo tin mộ trống, hai ông không bàn hỏi gì với Madalena nhưng đã vội vã chạy ra mộ, điều này chứng tỏ lòng nhiệt thành và trách nhiệm của hai ông đối với việc Chúa Giêsu sống lại.
4 / " Môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mộ trước ":
Gioan chạy nhanh hơn và đến mộ trước vì ông còn trẻ và nhất là do sức mạnh của tình yêu đã thúc đẩy ông.
5 / " Ông cúi mình xuống thấy những khăn niệm còn đó":
+ Khăn niệm: tấm vải lớn bao toàn thân xác Chúa Giêsu ( tấm khăn này còn được giữ lại tại nhà thờ thánh Gioan ở Turin Bắc Ý ).
+ " Nhưng ông không vào": có nhiều cách giải thích khác nhau: cách thông thường hơn hết cho rằng Gioan có lẽ đã chờ Phêrô vì địa vị tối cao của Phêrô trong đoàn tông đồ. Tuy nhiên cách giải thích đơn giản hơn cả cho rằng: vì bàng hoàng trước cửa mộ rộng mở và những dải khăn liệm còn ở dưới đất, nên Gioan đã chần chờ một vài giây phút trước sự kiện là lùng này và như vậy Phêrô đã đủ thời giờ bắt kịp Phêrô vốn tính nóng nảy nhiệt thành, nên có lẽ khi tới nơi ông đã nhanh chân chui vào mộ trước khi Gioan hết sững sờ.
6 / " Và thấy những giây băng nhỏ để đó... ":
Bên trong mộ các khăn liệm vẫn còn, khác với Lazarô khi ông sống lại ( Ga 11, 43 ). Chúa Giêsu không cần đến sự giúp đỡ của con người như Người đã lăn tảng đá đóng kín mộ thế nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm khăn phủ mặt thế ấy.
Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết cho rằng xác Chúa Giêsu bị đánh cắp, vì không lẽ những người trộm xác lại có thể nghĩ đến việc trấn lột xác chết như vậy.
7 / " Ông thấy và ông tin":
Sự kiện khăn liệm và khăn che mặt còn đó là một dấu chỉ Chúa sống lại. Thự vậy, mới qua dấu chỉ này thôi Gioan đã tin ngay là Chúa sống lại rồi. Đây là đức tin sống động của Gioan. Nếu không cần thấy Chúa đích thân sống lại để tin, thì ông cũng đến sức mạnh của các dấu chỉ đó.
Ơ đây chứng tỏ Gioan đã không thực hiện hoàn toàn lời chúc phúc của Chúa Giêsu " Phúc cho ai không thấy mà tin" ( Ga 20, 29 ). Chỉ có mình Đức Maria, người đã tin ở con mình trước khi thấy phép lạ ( Ga 2, 3 - 5 ) là chứng tỏ một đức tin hoàn hảo đến độ Người không xuất hiện trong tất cả các biến cố này người đã không cần đến bằng chứng hoặc dấu chỉ nào để tin vào sự sống lại của con mình, Chúa Giêsu hiện ra với Mẹ Người sau khi sống lại là dẻ chia sẻ niềm vui và chiến thắng vinh quang của Con cho Mẹ hơn là làm bằng chứng.
+ " Vì chưng các ông còn chưa hiểu...": các ông chưa hiểu, dĩ nhiên là trước khi chứng kiến sự kiện xảy ra trong mộ. Điều này chứng tỏ Phêrô và Gioan tin Chúa sống lại vì bằng chứng trước mắt chứ không phải vì các ông đã nhận ra lời Kinh Thánh tiên báo.
III / ÁP DỤNG:
A / Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay trong ngày lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh để một đàng là làm sống lại niềm tin của chúng ta vào mầu nhiện Chúa phục sinh, đàng khác thúc đẩy chúng ta noi theo con đường tử nạn của Chúa Giêsu để hy vọng vào sự sống lại của mình sau này.
B / Áp dụng thực hành:
1 / Nhìn vào Maria Madalena:
+ Bà là người đã được Chúa Giêsu trừ bảy quỷ ( Mc 16, 6 ).
+ Bà đã cùng một số người khác theo các tông đồ đi giúp việc truyền giáo ( Lc8, 2 - 3 ).
+ Bà hiện diện dưới chân Thánh giá ( Mt 27, 56 ) và ở mồ Chúa Giêsu lúc tản sáng ( Mt 26, 61 ).
+ Bà được Chúa đích thân hiện ra và bà nhận ra Chúa khi Người gọi tên bà ( Ga 20, 11, 28 ).
Noi gương bà Madalena chúng ta cũng được Chúa giải thoát khỏi quỷ qua Bí tích Giải tội. Vậy ta hãy nhiệt thành phục vụ Giáo Hội, trong việc truyền giáo và tông đồ, cản đảm trong sự trung thành với Chúa khi gặp thử thách cũng như lúc may mắn...
2 / Nhìn vào Phêrô và Gioan:
+ Cả hai ông chạy đến mộ của Chúa trước khi Chúa sống lại, làm một sự thất bại và nỗi thất vọng cho các ông, nhưng sau khi Madalena báo tin, hai ông vội vã chạy đến mộ: chứng tỏ hai ông được khơi dậy niềm hy vọng qua dấu chỉ ngôi mộ trống của Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta có những lần thất bại đến tuyệt vọng. Hãy noi gương hai vị tông đồ biết đặt hy vọng vào Chúa sau những lần thất bại để tiếp tục công việc cho đến khi hoàn thành.
+ Ông thấy và tin: những dấu chỉ của ngôi mộ trống giúp Gioan tin và hiểu Thánh Kinh Lời Chúa soi đường chỉ lối cho ta, nhưng đôi những thực tại của cuộc sống giúp ta xác tín vào Lời Chúa hơn. Vì thế chúng ta tập thói quen lấy ánh sáng Lời Chúa soi chiếu vào mỗi thực tại để ta nhận ra ý Chúa qua các thực tại đó.
3 / Qua việc long trọng mừng lễ Chúa phục sinh:
Lòng trí Chúa hãy hướng tới những điều trên cao, đừng hướng về những điều dưới đất ( Cl 3, 1 - 4 ).
Năng lực thúc đẩy ta đón nhậ hy sinh là niềm vui phục sinh. Tin vào Chúa phục sinh là cửa mở để tin vào sự sống lại của mỗi người chúng ta, nhưng phải qua khổ nạn mới tới phục sinh.
4 / Ngay từ cuộc sống trần thế: người tín hữu đã sống trước phần nào mầu nhiệm phục sinh, tất nhiên vẫn còn phải sống trong tình trạng chờ đợi. Chúng ta sống mầu nhiện phục sinh bằng cách:
a) Nghe Lời Chúa: " Bấy giờ là chính lúc các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và những kẻ nghe thì sẽ được sống " ( Ga 5, 25 ).
b) Bằng cách thực hiện bác ái: " Chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống là vì chúng ta thương yêu nhau. Ai không thương yêu thì ở trong sự chết" ( 1Ga 3, 14 ).
c) Rước Mình Thánh: " Ta là bánh bởi trời, ai ăn bánh này sống đời đời " ( Ga 6, 50 ).
Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc - Bài Giảng Lễ
"Chúa đã sống lại, alleluia!"
Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9
Một cuốn phim mang tựa đề "Thế giới trong tăm tối" diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem:
Ngọn đồi Gôlgôta được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì the
Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9
Một cuốn phim mang tựa đề "Thế giới trong tăm tối" diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem:
Ngọn đồi Gôlgôta được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì the
TAGS:
CHIA SẺ BÀI VIẾT