
GALILÊA - Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên Năm A (Mt 28:16-20) | Từ ngữ Kinh Thánh

“Mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước” (Mt 28,16)
Galilêa (tiếng Do thái là gàlil, tiếng Hilạp là galilaias) có nghĩa là “vòng tròn” “khu”, miền đất phương bắc miền Palestina, giới hạn bởi đồng bằng Yizreel, sông Gioađan, miền Tyr và Siđoan.
Miền bắc Galilêa được gọi giản dị là “núi” (Gs 11,2) hoặc “những ngọn núi Nepthali” (Gs 20,7). Tính chất địa dư của Galilêa hướng nó về miền nam, do đó trong lịch sử thánh kinh, nó được nối kết với Samaria và Giuđa với đồng bằng Esdraelon và thung lung Giođan, Galilêa là tiếp điểm của nhiều ngã đường quan trọng mở ra mọi hướng, khiến dân cư ở đây pha trộn nhiều chủng tộc và trong phần lớn các giai đoạn lịch sử, nó được mệnh danh là “miền đất của dân ngoại” (Is 8,23)
Cuộc chinh phục Galilêa do Giosuê thực hiện (Gs 11) có lẽ đã thu gọn cả một tiến trình xâm nhập lâu dài, vì các thành Kedesh và Yanoam vẫn tồn tại ở phần đất này của các bộ tộc do thái Zabulon, Nephtali, Asher và Isaachar. Các bộ tộc này đã được Barak và Debora hướng dẫn trong cuộc chiến chống Sisera (Tl 4-5). Galilêa cũng là nới diễn ra cuộc chiến của Simon (1Mcb 5,14-23) và cuối cuộc chiến Simon đã đưa người do thái ở Galilêa về Giuđêa.
Galilêa không quan trọng gì trong lịch sử Cựu Ước từ thời Salomon đến Tân Ước. Phần lớn các biến cố trong tin mừng nhất lãm diễn ra ở Galilêa, nơi Chúa Giêsu trải qua phần lớn cuộc sống và sứ vụ của Ngài. Người Do thái ở Giêrusalem coi thường dân Galilêa, nhưng chính từ “miền đất của dân ngoại” này (Mt 4,15) mà Chúa Giêsu trao sứ mệnh đến với muôn dân (Mt 28,19...), như đã được gợi ý (2,1-12 4,15-16 23-25 8,5-13 10,18 15,21-28 22,1-10 24,14 25,12 26,13).