
Bộ Giáo Luật - The Code of Canon Law: QUYỂN VI: CHẾ TÀI TRONG GIÁO HỘI

27/02/2016
5.5K
Ðiều 1311: (1) Giáo Hội có quyền lợi bẩm sinh và riêng biệt để câu thúc bằng chế tài hình sự những tín hữu phạm tội...
QUYỂN VI: CHẾ TÀI TRONG GIÁO HỘI
PHẦN I: TỘI PHẠM VÀ HÌNH PHẠT NÓI CHUNG
THIÊN 1: SỰ TRỪNG TRỊ TỘI PHẠM NÓI CHUNG
Ðiều 1311: (1) Giáo Hội có quyền lợi bẩm sinh và riêng biệt để câu thúc bằng chế tài hình sự những tín hữu phạm tội.
Ðiều 1312: (1) Những chế tài hình sự trong Giáo Hội là:
1. những hình phạt điều trị hay vạ, được liệt kê ở các điều 1331-1335;
2. những hình phạt thục tội, nói ở điều 1336.
(2) Luật có thể thiết lập những hình phạt thục tội khác, tước người tín hữu mất một thiện ích thiêng liêng hay trần thế nào đó; những hình phạt ấy phải phù hợp với mục đích siêu nhiên của Giáo Hội.
(3) Ngoài ra, còn được xử dụng những biện pháp hình sự và các việc sám hối: biện pháp hình sự cốt ý nhất là để phòng ngừa tội phạm; còn việc sám hối nhằm thay thế hay gia tăng một hình phạt.
THIÊN 2: HÌNH LUẬT VÀ MỆNH LỆNH HÌNH SỰ
Ðiều 1313: (1) Nếu luật thay đổi sau khi tội đã phạm, thì phải áp dụng luật nào khoan hồng hơn cho phạm nhân.
(2) Nếu một luật sau hủy bỏ một luật trước, hay ít là hủy bỏ hình phạt, thì hình phạt bị đình chỉ tức khắc.
Ðiều 1314: Nói chung, hình phạt là hậu kết (ferendae sententiae), nghĩa là chỉ ràng buộc phạm nhân sau khi đã tuyên án; còn hình phạt là tiền kết (latae sententiae), nghĩa là đương nhiên mắc hình phạt do chính việc phạm tội, khi nào luật pháp hay mệnh lệnh đã ấn định rõ ràng như vậy.
Ðiều 1315: (1) Người có quyền lập pháp thì cũng có thể lập ra hình luật. Ngoài ra, người ấy cũng có thể dùng luật riêng để thêm một hình phạt cân xứng vào một luật của Thiên Chúa hay một luật Giáo Hội do thượng cấp ban hành, miễn là duy trì giới hạn thẩm quyền của mình về lý do lãnh thổ hay nhân sự.
(2) Chính luật pháp có thể xác định hình phạt, hay để tùy cho thẩm phán xét đoán theo sự khôn ngoan.
(3) Luật địa phương có thể thêm những hình phạt khác vào các hình phạt đã được luật phổ quát ấn định cho vài tội phạm; tuy nhiên, chỉ được làm như vậy khi có sự cần thiết rất trầm trọng. Nếu luật phổ quát ngăm đe một hình phạt không nhất định hay nhiệm ý, thì luật địa phương có thể thay thế vào đó một hình phạt xác định hay bó buộc.
Ðiều 1316: Các Giám Mục giáo phận phải liệu sao để trong một xứ sở hay một miền, các luật hình, nếu cần phải ban hành, được đồng nhất với nhau.
Ðiều 1317: Chỉ nên thiết lập hình phạt khi thật sự cần thiết để bảo vệ kỷ luật Giáo Hội một cách thích hợp hơn. Nhưng luật địa phương không thể thiết lập hình phạt trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
Ðiều 1318: Nhà lập pháp chỉ nên ngăm đe hình phạt tiền kết, khi phải chống lại vài tội phạm đặc biệt cố tình phạm, mà hoặc chúng có thể gây gương xấu lớn, hay không thể phạt hữu hiệu bằng hình phạt hậu kết. Ngoài ra, chỉ nên thiết lập các vạ, nhất là vạ tuyệt thông, một cách hết sức hạn chế và dành cho những tội khá nặng mà thôi.
Ðiều 1319: (1) Kẻ nào, do quyền cai quản, có thể đặt ra những mệnh lệnh ở tòa ngoài, thì cũng có thể dùng mệnh lệnh để ngăm đe một hình phạt nhất định, ngoại trừ những hình phạt thục tội chung thân.
(2) Chỉ nên ra một mệnh lệnh hình sự sau khi đã cân nhắc chính chắn và tuân giữ những gì đã ấn định ở các điều 1317 và 1318 về luật địa phương.
Ðiều 1320: Trong những lãnh vực mà các tu sĩ phải tùy thuộc Bản Quyền sở tại, thì họ cũng có thể bị Bản Quyền ấy câu thúc bằng hình phạt.
THIÊN 3: CHỦ THỂ CÓ THỂ THỤ HÌNH
Ðiều 1321: (1) Không ai bị trừng phạt, nếu việc vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh bên ngoài không thể quy trách nặng do gian ý hay do lỗi lầm.
(2) Ai cố tình vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh sẽ bị phạt theo như luật pháp hay mệnh lệnh đã ấn định. Nhưng ai vi phạm vì thiếu sự cẩn thận cần thiết sẽ không bị phạt, trừ khi luật pháp hay mệnh lệnh quy định cách khác.
(3) Một khi đã có sự vi phạm bên ngoài, thì sự quy trách được suy đoán, trừ khi đã rõ cách nào khác.
Ðiều 1322: Những người thường xuyên thiếu xử dụng trí khôn, thì dù khi vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh họ có vẻ lành mạnh, cũng được kể là không có khả năng phạm tội.
Ðiều 1323: Những người sau đây không bị phạt khi họ vi phạm một luật hay một mệnh lệnh:
1. kẻ chưa đủ mười sáu tuổi trọn;
2. không biết mình vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh; sự không biết ấy không phải tại lỗi của mình. Sự vô ý và lầm lẫn được đồng hóa với sự không biết;
3. hành động do một áp lực thể lý hay do trường hợp ngẫu nhiên không thể đề phòng, hay nếu đã đề phòng nhưng cũng không tránh được;
4. bị cưỡng bách hành động vì sợ hãi trầm trọng tuy chỉ có tính cách tương đối, hay vì nhu cầu thúc đẩy, hay vì tránh một hiểm họa; miễn là hành vi ấy không xấu tự bản tính hay không gây nguy hại đến các linh hồn;
5. hành động để phòng vệ chính đáng, để chống lại một người xâm kích mình hay người khác cách bất công, tuy phải giữ sự chừng mực tương xứng;
6. thiếu xử dụng trí khôn, miễn là duy trì những quy định ở các điều 1324, triệt 1, số 2, và 1325;
7. tưởng nghĩ cách ngay tình rằng mình đã ở một trong các trường hợp nói ở các số 4 hay 5;
Ðiều 1324: (1) Kẻ phạm pháp không được miễn khỏi thụ hình. Tuy nhiên, hình phạt do luật pháp hay mệnh lệnh ấn định có thể được giảm khinh hay được thay thế bằng một việc sám hối, nếu tội phạm đã xảy ra:
1. do người chỉ xử dụng trí khôn cách bất toàn;
2. do người không xử dụng trí khôn do sự say rượu hay sự thác loạn tinh thần tương tự vì lỗi của mình;
3. do người hành động do một cơn nóng giận, tuy dù nó không lấn áp và cản trở lý trí suy tính và ý chí ưng thuận, miễn là chính sự nóng giận ấy không phải cố tình kích thích và nuôi dưỡng;
4. do vị thành niên đã đủ mười sáu tuổi;
5. do người bị cưỡng bách vì sợ hãi trầm trọng tuy chỉ có tính cách tương đối, hoặc vì nhu cầu thúc đẩy, vì tránh một hiểm họa, nếu tội phạm tự bản tính là xấu hay gây nguy hại đến các linh hồn;
6. do người hành động vì phòng vệ chính đáng chống lại kẻ xâm kích mình hay người khác cách bất công, nhưng đã không giữ chừng mực tương xứng;
7. do người phản ứng lại kẻ khiêu khích trầm trọng và bất công;
8. do người vì lầm lẫn tại lỗi mình, tưởng rằng mình đang ở một trong những trường hợp nói ở điều 1323, các số 4 hay số 5;
9. do người, không tại lỗi mình mà không biết có một hình phạt kèm theo luật pháp hay mệnh lệnh;
10. do người hành động mà không thể hoàn toàn chịu trách nhiệm, tuy dù trách nhiệm này vẫn còn nặng.
(2) Thẩm phán có thể xử sự cách tương tự như thế nếu có những trường hợp giảm khinh cho sự trầm trọng của tội phạm.
(3) Trong những trường hợp nói ở triệt 1, can phạm không bị mắc hình phạt tiền kết.
Ðiều 1325: Sự không biết, dù chủ tâm hoặc do sự lười biếng hay giả đò, sẽ không bao giờ được xét đến khi áp dụng những quy định của các điều 1323 và 1324. Cũng vậy, sẽ không được xét đến sự say rượu hay các thứ thác loạn tinh thần khác nếu cố ý dàn ra để phạm tội hay để chữa mình, và sự nóng giận được cố ý kích thích hay nuôi dưỡng.
Ðiều 1326: (1) Thẩm phán có thể tuyên hình phạt nặng hơn hình phạt mà luật hay mệnh lệnh đã ấn định khi nào:
1. một người sau khi bị kết án hay tuyên bố hình phạt rồi mà vẫn tiếp tục phạm tội, đến nỗi do các hoàn cảnh có thể ước đoán cách khôn ngoan rằng người ấy ngoan cố không chịu bỏ ác ý;
2. người được đặt vào một chức vị, hay người lạm dụng quyền bính hay chức vụ để phạm tội;
3. trong trường hợp hình phạt đã được đặt ra cho tội phạm cố tình, phạm nhân tiên liệu biến cố sẽ xảy ra nhưng đã bỏ qua không chịu đề phòng để tránh, theo như bất cứ người nào cẩn thận đều phải làm.
(2) Trong trường hợp nói ở triệt 1, nếu hình phạt ấn định là tiền kết, thì có thể thêm vào một hình phạt khác hay một việc sám hối.
Ðiều 1327: Ngoài những trường hợp nói ở các điều 1323-1326, luật địa phương có thể ấn định những trường hợp khác miễn trừ, giảm khinh, gia trọng, hoặc bằng một quy tắc chung hay dành cho từng tội phạm. Cũng thế, một mệnh lệnh có thể ấn định những trường hợp miễn trừ, giảm khinh hay gia trọng hình phạt do chính mệnh lệnh đặt ra.
Ðiều 1328: (1) Người đã làm hay bỏ một hành vi để phạm tội nhưng không hoàn thành tội phạm được ngoài ý muốn, thì không bị hình phạt ấn định cho tội phạm đã hoàn thành, trừ khi luật pháp hay mệnh lệnh ấn định cách khác.
(2) Nhưng nếu những hành vi hoặc sự thiếu sót tự bản tính đưa đến sự thực hiện tội phạm, thì thủ phạm có thể phải chịu một việc sám hối hay một biện pháp hình sự, trừ khi đương sự tự ý từ bỏ thực hiện tội phạm mà mình đã bắt đầu. Tuy nhiên, nếu sau đó có xảy ra một gương xấu hay thiệt hại nặng hay một nguy cơ nào, thì dù thủ phạm đã tự ý từ bỏ, đương sự cũng có thể bị phạt bằng một hình phạt xứng đáng, nhưng nhẹ hơn hình phạt ấn định cho tội phạm đã hoàn thành.
Ðiều 1329: (1) Những người đồng lõa tham gia vào tội phạm và không được minh thị đề cập đến trong luật hay mệnh lệnh, thì nếu chính phạm bị trừng phạt bằng hình phạt hậu kết, họ sẽ cũng chịu hình phạt như vậy hay những hình phạt khác nặng tương đương hoặc nhẹ hơn.
(2) Khi có hình phạt tiền kết gắn với tội phạm, thì những đồng lõa không được luật hay mệnh lệnh đề cập đến, cũng phải chịu hình phạt ấy trong trường hợp nếu không có sự tham gia của họ thì tội đã không xảy ra và hình phạt tự bản chất có thể áp dụng cho họ; còn không, họ có thể bị phạt với hình phạt hậu kết.
Ðiều 1330: Một tội phạm hệ tại việc tuyên bố hay sự bộc lộ ý muốn, học thuyết hay kiến thức, thì không kể là đã hoàn thành nếu không ai nhận thức lời tuyên bố hay sự bộc lộ ấy.
Thiên 4: Các Hình Phạt Và Các Sự Trừng Trị Khác
Chương I: Hình Phạt Chữa Trị Hay Vạ
Ðiều 1331: (1) Người mắc vạ tuyệt thông bị cấm:
1. không được tham phần bằng bất cứ cách nào như thừa tác viên vào việc cử hành Hy Tế Thánh Thể, hay vào các lễ nghi phụng tự nào khác;
2. không được cử hành các bí tích hay á bí tích, và lãnh nhận các bí tích;
3. không được hành sử chức vụ, tác vụ, hay bất cứ nhiệm vụ nào, hay thi hành các hành vi cai trị.
(2) Sau khi vạ tuyệt thông đã bị tuyên kết hay tuyên bố, phạm nhân:
1. muốn hành động nghịch lại quy định ở triệt 1, số 1, thời phải bị trục xuất, haylễ nghi phụng vụ phải đình chỉ, trừ khi có một lý do hệ trọng cản lại;
2. thi hành vô hiệu những hành vi cai trị mà chiếu theo quy tắc ở triệt 1, số 3, đương sự không được phép làm;
3. bị cấm hưởng dụng các đặc ân được ban cấp trước đây;
4. không được lãnh nhận cách hữu hiệu một chức vị, chức vụ hay nhiệm vụ nào khác trong Giáo Hội;
5. không được chiếm hữu cho mình các lợi lộc của bất cứ chức vị, chức vụ hay nhiệm vụ, hưu bổng nào mà đương sự đã có trong Giáo Hội.
Ðiều 1332: Người mắc vạ cấm chế thì bị ràng buộc bởi những lệnh cấm nói ở điều 1331, triệt 1, số 1 và 2. Sau khi vạ cấm chế đã tuyên kết hay tuyên bố, thì phải tuân giữ quy định ở điều 1331, triệt 2, số 1.
Ðiều 1333: (1) Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo sĩ; người mắc vạ này bị cấm:
1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;
2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;
3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.
(2) Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay tuyên bố, người bị huyền chức không thể ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.
(3) Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:
1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt;
2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ
3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức, nếu là hình phạt tiền kết.
(4) Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình.
Ðiều 1334: (1) Trong tầm mức được ấn định bởi điều luật trên đây, lãnh vực của vạ huyền chức sẽ được xác định do chính luật hay mệnh lệnh, hoặc do án văn hay nghị định tuyên kết.
(2) Luật, chứ không phải mệnh lệnh, có thể ấn định một hình phạt huyền chức tiền kết, mà không thêm sự xác định hay giới hạn nào khác; trong trường hợp ấy, hình phạt sẽ có tất cả moị hiệu quả kê khai ở điều 1333, triệt 1.
Ðiều 1335: Nếu một vạ cấm cử hành các Bí Tích hay Á Bí Tích hay cấm thi hành một hành vi cai trị, thì lệnh cấm được đình chỉ mỗi khi cần phải giúp người tín hữu đang trong tình trạng nguy tử. Ngoài ra, nếu hình phạt tiền kết chưa được công bố, lệnh cấm cũng còn được đình chỉ mỗi khi có người tín hữu xin lãnh Bí Tích hay Á Bí Tích, hay hành vi cai trị; người tín hữu được phép xin như thế khi có bất cứ lý do chính đáng nào.
Chương II: Những Hình Phạt Thục Tội
Ðiều 1336: (1) Hình phạt thục tội có thể chi phối phạm nhân suốt đời hay trong một thời gian hạn định hay vô hạn định. Ngoài một số hình phạt khác mà pháp luật có thể thiết lập, hình phạt thục tội gồm những thứ sau đây:
1. cấm chỉ hay bắt buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định;
2. tước mọi quyền hành, chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi, đặc ân, năng quyền, ân huệ, danh hiệu, phù hiệu, dù chỉ là thuần túy danh dự;
3. cấm thi hành những điều kê khai ở số 2, hoặc cấm thi hành các điều ấy ở một nơi hay ngoài một nơi nhất định; sự ngăn cấm này không bao giờ được gắn với hình phạt vô hiệu hóa;
4. thuyên chuyển có tính cách hình sự đến một chức vụ khác;
5. trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Chỉ có thể phạt tiền kết những hình phạt thục tội kê khai ở triệt 1, số 3.
Ðiều 1337: (1) Sự cấm lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nào đó có thể áp dụng cho cả giáo sĩ lẫn tu sĩ; còn sự buộc lưu trú có thể áp dụng cho các giáo sĩ triều và, trong giới hạn của hiến pháp, cho các tu sĩ.
(2) Ðể tuyên kết một mệnh lệnh buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định, cần có sự thỏa thuận của Bản Quyền của nơi ấy, trừ khi nơi ấy đã có một nhà dành cho các giáo sĩ không thuộc giáo phận để đền tội hay sửa mình.
Ðiều 1338: (1) Những sự tước đoạt và cấm chỉ kê khai ở điều 1336, triệt 1, số 2 và 3, không bao giờ áp dụng cho những quyền hành, chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi, đặc ân, năng quyền, ân huệ, danh hiệu, phù hiệu không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt.
(2) Không thể nào tước đoạt quyền thánh chức, nhưng chỉ cấm thi hành quyền ấy hay một vài hành vi của quyền ấy; cũng vậy, không thể tước đoạt bằng cấp đại học.
(3) Ðể áp dụng những điều cấm chỉ đã kê khai ở điều 1336, triệt 1, số 3, phải giữ quy tắc dành cho các vạ nói ở điều 1335.
Chương III: Biện Pháp Hình Sự Và Việc Sám Hối
Ðiều 1339: (1) Khi một người ở trong dịp sắp sửa phạm tội, hay do một cuộc điều tra, người ấy rất bị nghi ngờ đã phạm tội, thì Bản Quyền có thể đích thân hay nhờ người khác cảnh cáo.
(2) Người nào mà hạnh kiểm gây gương xấu, hoặc gây xáo trộn trật tự cách trầm trọng, thì Bản Quyền cũng có thể khiển trách theo cách thức thích ứng với những điều kiện riêng biệt của đương sự và sự kiện.
(3) Cần phải luôn luôn lập bằng chứng của việc cảnh cáo hay khiển trách, ít là bằng một tài liệu được giữ trong văn khố mật của giáo phủ.
Ðiều 1340: (1) Việc sám hối có thể bị cưỡng bách ở tòa ngoài, hệ tại việc thi hành vài công tác đạo đức, phụng tự hay bác ái.
(2) Không bao giờ được cưỡng bách phải làm việc sám hối công khai vì một sự vi phạm kín đáo.
(3) Bản Quyền có thể theo sự khôn ngoan của mình mà thêm các việc sám hối vào biện pháp hình sự cảnh cáo hay khiển trách.
THIÊN 5: VIỆC ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
Ðiều 1341: Bản Quyền chỉ nên phát động tố tụng tư pháp hay hành chánh để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt khi nhận thấy việc răn bảo huynh đệ, sự khiển trách, cũng như những đường lối khác theo lòng ưu tư mục vụ không thể sửa chữa được gương xấu, tái lập công bình và cải hóa phạm nhân.
Ðiều 1342: (1) Mỗi khi có những lý do chính đáng làm cản trở tố tụng tư pháp, thì có thể tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định ngoại tư pháp. Những biện pháp hình sự và việc sám hối có thể được áp dụng bằng nghị định trong bất cứ trường hợp nào.
(2) Không thể bị tuyên kết hay tuyên bố bằng một nghị định những hình phạt chung thân và những hình phạt nào mà luật pháp hay mệnh lệnh đã cấm áp dụng bằng nghị định.
(3) Những gì mà luật pháp hay mệnh lệnh nói về thẩm phán có liên quan đến việc tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, thì cũng phải được áp dụng cho Bề Trên khi phải tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định ngoại tư pháp, trừ khi đã rõ cách khác hay chỉ là những quy định liên quan đến thủ tục.
Ðiều 1343: Nếu luật pháp hay mệnh lệnh cho thẩm phán quyền áp dụng hay không áp dụng hình phạt, thì thẩm phán cũng có thể, tùy theo lương tâm và khôn ngoan, tiết giảm hình phạt hay thay vào đó bằng một việc sám hối.
Ðiều 1344: Mặc dù luật pháp có dùng những từ ngữ có tính cách truyền khiến, nhưng thẩm phán vẫn có thể, tùy theo lương tâm và sự khôn ngoan:
1. hoãn lại việc tuyên kết đến một thời gian thích hợp hơn, nếu thấy rằng sự trừng phạt phạm nhân ngay tức thời sẽ gây những tai hại lớn hơn;
2. miễn tuyên kết, hay tuyên kết bằng một hình phạt nhẹ hơn, hay bắt làm việc sám hối, nếu phạm nhân đã cải thiện và sửa chữa gương xấu, hoặc nếu phạm nhân đã bị chính quyền dân sự phạt vừa phải hoặc dự đoán rằng đương sự sẽ bị phạt như vậy;
3. đình chỉ nghĩa vụ thi hành một hình phạt thục tội, nếu phạm nhân lần đầu tiên phạm tội sau khi đã sống đời liêm chính, và nếu không cần phải sửa chữa gương xấu gấp. Tuy nhiên, nếu trong thời hạn được thẩm phán ấn định, phạm nhân tái phạm, thì đương sự phải lãnh chịu hình phạt của cả hại tội phạm, trừ khi nào, trong khoảng thời gian ấy đã phát lưu thời hiệu đối với tố quyền hình sự về tội phạm thứ nhất.
Ðiều 1345: Khi phạm nhân chỉ xử dụng trí khôn cách bất toàn, hoặc đã phạm tội vì sợ hãi, hoặc vì thiết bách, hoặc vì đam mê thúc đẩy, hay khi say rượu hoặc do sự rối loạn tinh thần tương tự nào khác, thì thẩm phán cũng có thể miễn không tuyên một hình phạt nào hết nếu nhận thấy có thể dùng cách thức khác tốt hơn để cải thiện can phạm.
Ðiều 1346: Mỗi khi phạm nhân phạm nhiều tội, và các hình phạt hậu kết chồng chất có vẻ khắc nghiệt, thì thẩm phán được quyền theo sự định đoạt khôn ngoan của mình mà điều giảm các hình phạt trong những giới hạn công minh.
Ðiều 1347: (1) Không thể tuyên kết cách hữu hiệu một vạ, nếu trước đó phạm nhân đã không được khuyến cáo ít là một lần để chấm dứt sự cố chấp, và được dành một thời gian xứng hợp để hối cải.
(2) Có thể kể như phạm nhân đã chấm dứt sự cố chấp khi đương sự đã thật lòng hối hận về tội phạm, và ngoài ra đã sửa chữa cách xứng hợp các thiệt hại và gương xấu, hoặc ít là nghiêm chỉnh hứa sẽ sửa chữa.
Ðiều 1348: Khi một phạm nhân được miễn tố hay không bị tuyên hình phạt, thì Bản Quyền có thể lo liệu lợi ích cho đương sự hay cho công ích bằng những lời khuyến cáo hay những đường lối khác chiếu theo lòng ưu tư mục vụ, hoặc nếu cần, bằng những biện pháp hình sự.
Ðiều 1349: Nếu hình phạt các tính cách không xác định, và nếu luật pháp không dự trù cách nào khác, thì thẩm phán không nên tuyên phạt bằng những hình phạt nặng hơn, nhất là bằng vạ, trừ khi trường hợp hệ trọng đòi hỏi. Tuy nhiên, thẩm phán không được tuyên phạt bằng những hình phạt chung thân.
Ðiều 1350: (1) Khi tuyên hình phạt cho một giáo sĩ, luôn luôn phải dự liệu sao cho họ không thiếu những gì cần thiết để sinh sống cách xứng đáng, đừng kể khi đương sự bị khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Tuy nhiên, nếu một người lâm vào tình trạng túng thiếu do hình phạt khai trừ khỏi hàng giáo sĩ, thì Bản Quyền phải lo liệu cho đương sự bằng một cách thức nào hoàn hảo có thể được.
Ðiều 1351: Hình phạt chi phối phạm nhân ở mọi nơi, cả khi người ấn định hay tuyên kết hình phạt đã hết quyền, nếu không minh thị dự liệu cách khác.
Ðiều 1352: (1) Nếu hình phạt cấm lãnh nhận bí tích hay á bí tích, thì sự cấm ấy được đình chỉ trong suốt thời gian phạm nhân ở trong tình trạng nguy tử.
(2) Khi một hình phạt tiền kết chưa được tuyên bố hay chưa được bộc lộ tại nơi can phạm đang sống, thì sự bó buộc tuân giữ hình phạt được đình chỉ hoàn toàn hay một phần, nếu phạm nhân không thể nào tuân giữ mà khỏi nguy cơ gây gương xấu trầm trọng hay bị mất thanh danh.
Ðiều 1353: Sự kháng cáo hay thượng tố chống các án văn tư pháp hay các nghị định tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, có hiệu lực đình chỉ.
THIÊN 6: SỰ CHẤM DỨT HÌNH PHẠT
Ðiều 1354: (1) Ngoài những người được kê khai ở các điều 1355-1356, tất cả những ai có quyền chuẩn miễn một luật có kèm theo hình phạt hoặc giải miễn một mệnh lệnh ngăm đe một hình phạt, đều có quyền tha hình phạt ấy.
(2) Ngoài ra, luật pháp hay mệnh lệnh thiết lập một hình phạt cũng có thể cấp cho những người khác quyền tha hình phạt ấy.
(3) Nếu Tòa Thánh dành riêng cho mình hay dành cho người khác quyền tha hình phạt, sự dành riêng phải được giải thích theo nghĩa hẹp.
Ðiều 1355: (1) Những người sau đây có thể tha hình phạt do luật pháp thiết lập, sau khi hình phạt đã được tuyên kết hay tuyên bố, miễn là hình phạt không được dành cho Tòa Thánh:
1. Bản Quyền đã phát động thủ tục tư pháp để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, hay đã đích thân hoặc nhờ người khác tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định;
2. Bản Quyền sở tại ở nơi can phạm đang ở, sau khi đã tham khảo Bản Quyền nói ở số 1, trừ khi vì trường hợp ngoại thường không thể tham khảo được.
(2) Hình phạt tiền kết do luật ấn định nhưng chưa được tuyên bố, nếu không dành riêng cho Tòa Thánh, thì có thể được Bản Quyền tha cho những người thuộc quyền mình và cho những người đang ở trong lãnh thổ mình hay đã phạm tội tại đó; tất cả các Giám Mục đều có thể tha chúng, nhưng chỉ trong chính lúc ban bí tích giải tội.
Ðiều 1356: (1) Những người sau đây có thể tha hình phạt hậu kết hay tiền kết được thiết lập bởi một mệnh lệnh không phải do Tòa Thánh ban hành:
1. Bản Quyền sở tại ở nơi can phạm đang ở;
2. nếu hình phạt đã bị tuyên kết hay tuyên bố, thì cả Bản Quyền đã phát động thủ tục tư pháp để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, hay đã đích thân hoặc nhờ người khác tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định.
(2) Trước khi tha hình phạt, cần phải tham khảo tác giả của mệnh lệnh, trừ khi vì trường hợp ngoại thường không thể tham khảo được.
Ðiều 1357: (1) Ðừng kể những gì đã quy định ở các điều 508 và 976, cha giải tội có quyền tha ở tòa trong, lúc ban bí tích, vạ tuyệt thông tiền kết hay cấm chế chưa tuyên bố, nếu hối nhân khổ sở vì phải thường xuyên ở trong tình trạng tội nặng suốt thời gian cần thiết để Bề Trên có thẩm quyền định liệu.
(2) Khi ban sự xá giải, cha giải tội phải buộc hối nhân, nếu không tuân thì sẽ mắc vạ lại, phải thượng cầu trong vòng một tháng lên Bề Trên có thẩm quyền hay một linh mục có năng quyền, và phải theo quyết định của Ngài; tạm thời, cha giải tội phải ra việc đền tội tương xứng và, nếu cần, đòi sửa chữa gương xấu và thiệt hại. Sự thượng cầu có thể được thực hiện qua cha giải tội, những không nói tên của hối nhân.
(3) Những người đã được giải vạ đã tuyên kết hay tuyên bố hay dành cho Tòa Thánh dựa theo quy tắc của điều 976, thì cũng bị buộc nặng phải thượng cầu sau khi họ đã được bình phục.
Ðiều 1358: (1) Vạ sẽ không được tha nếu can phạm không từ bỏ sự cố chấp, chiếu theo quy tắc của điều 1347, triệt 2; nhưng khi đương sự đã từ bỏ sự cố chấp thì không được khước từ việc tha vạ.
(2) Kẻ đã tha vạ, có thể áp dụng những biện pháp nói ở điều 1348, hay cũng có thể bắt làm một việc sám hối.
Ðiều 1359: Nếu một người bị mắc nhiều hình phạt, sự tha chỉ có giá trị đối với những hình phạt nào được nói tới rõ ràng. Tuy nhiên, một sự tha tổng quát sẽ hủy bỏ tất cả các hình phạt, trừ ra những hình phạt nào phạm nhân vì gian ý đã làm thinh không kể ra trong đơn thỉnh nguyện.
Ðiều 1360: Sự tha hình phạt sẽ vô hiệu nếu bị thúc ép do sợ hãi trầm trọng.
Ðiều 1361: (1) Sự tha hình phạt có thể thực hiện kể cả đối với một người vắng mặt, hay với điều kiện.
(2) Sự tha ở tòa ngoài phải được làm bằng giấy tờ, trừ khi có lý do hệ trọng khuyên làm cách khác.
(3) Phải liệu sao cho đơn xin tha hình phạt hay chính việc tha không bị tiết lộ, trừ khi điều ấy có ích lợi để bảo vệ thanh danh cho phạm nhân, hoặc cần thiết để sửa chữa gương xấu.
Ðiều 1362: (1) Tố quyền hình sự bị thời tiêu sau ba năm, trừ khi liên can đến:
1. những tội phạm dành cho Bộ Ðạo Lý Ðức Tin;
2. tố quyền đối với các tội phạm nói ở các điều 1394, 1395, 1397, 1398; đối với các tội ấy, thời hiệu là năm năm;
3. những tội phạm không bị luật chung trừng phạt, nếu luật địa phương đã ấn định một hạn kỳ khác cho thời hiệu.
(2) Thời hiệu khởi lưu kể từ ngày phạm tội, hoặc kể từ ngày tội phạm chấm dứt, nếu là tội phạm liên tục hay thường xuyên.
Ðiều 1363: (1) Tố quyền chấp hành án hình sẽ bị thời tiêu, nếu trong thời hạn nói ở điều 1362, tính từ ngày án văn kết án trở thành vấn đề quyết tụng, án lệnh chấp hành của thẩm phán nói ở điều 1651, không được cáo tri cho phạm nhân.
(2) Luật này cũng được áp dụng, với những điều chỉnh cần thiết, trong trường hợp hình phạt được tuyên kết bằng nghị định ngoại tư pháp.
PHẦN II: HÌNH PHẠT CHO TỪNG TỘI PHẠM
THIÊN 1: NHỮNG TỘI PHẠM NGHỊCH VỚI TÔN GIÁO VÀ SỰ HỢP NHẤT CỦA GIÁO HỘI
Ðiều 1364: (1) Người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo, sẽ bị mắt vạ tuyệt thông tiền kết, đừng kể quy định ở điều 194, triệt 1, số 2. Ngoài ra, giáo sĩ có thể bị phạt với những hình phạt nói ở điều 1336, triệt 1, các số 1, 2 và 3.
(2) Nếu có sự cố chấp kéo dài hay gương xấu trầm trọng đòi hỏi thì có thể thêm những hình phạt khác nữa, kể cả hình phạt khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
Ðiều 1365: Kẻ vi phạm lệnh cấm thông phần vào lễ nghi thánh, phải bị phạt bằng hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1366: Cha mẹ, hay những người thế quyền, cho con cái chịu rửa tội hay được giáo dục trong một tôn giáo không công giáo, phải bị phạt vạ hay hình phạt tương xứng khác.
Ðiều 1367: Ai ném bỏ bánh thánh, lấy hoặc giữ với mục đích phạm thánh, bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh. Ngoài ra, giáo sĩ còn có thể bị phạt bằng hình phạt khác, kể cả hình phạt khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
Ðiều 1368: Nếu ai đã phạm tội thề gian khi quyết hay hứa điều gì trước giáo quyền, phải bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1369: Ai, trong buổi trình diễn công cộng, hay trong buổi đại hội, hay trong bài viết phổ biến cho công chúng, hay dùng phương tiện truyền thông xã hội khác mà nói lộng ngôn phạm thượng, hoặc xúc phạm nặng nề đến thuần phong mỹ tục, hoặc nguyền rủa hay khích động lòng thù ghét hay khinh bỉ tôn giáo hay Giáo Hội, phải bị phạt hình phạt xứng đáng.
THIÊN 2: TỘI PHẠM ÐẾN GIÁO QUYỀN VÀ SỰ TỰ DO CỦA GIÁO HỘI
Ðiều 1370: (1) Người nào hành hung Ðức Thánh Cha sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh. Nếu là giáo sĩ, tùy theo mức nặng của tội phạm, có thể bị phạt thêm một hình phạt khác nữa, kể cả hình phạt khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Người nào hành hung một kẻ có chức Giám Mục, phải mắc vạ cấm chế tiền kết; và nếu là giáo sĩ, phải mắc vạ huyền chức tiền kết.
(3) Người nào hành hung giáo sĩ hay tư tế để nhục mạ Ðức Tin hay Giáo Hội, hay quyền bính và thừa tác vụ của Giáo Hội, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1371: Sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng:
1. kẻ nào, ngoài trường hợp nói ở điều 1364, triệt 1, giảng dạy một học thuyết đã bị Ðức Thánh Cha hay Công Ðồng Hoàn Vũ kết án, hay ngoan cố loại bỏ một giáo thuyết như nói ở điều 752, và dù bị Tòa Thánh hay Bản Quyền cảnh cáo, cũng không rút lại;
2. kẻ nào, bằng cách khác, không vâng phục Tòa Thánh, Bản Quyền hay Bề Trên khi họ truyền lệnh hay ngăn cấm hợp lệ và, sau khi bị cảnh cáo, vẫn ngoan cố không vâng phục.
Ðiều 1372: Ai thượng tố lên Công Ðồng Hoàn Vũ hay Giám Mục đoàn để chống lại một hành vi của Ðức Thánh Cha, sẽ bị phạt vạ.
Ðiều 1373: Ai công khai kích thích những người thuộc quyền mình chống đối và thù hận đối với Tòa Thánh hay Bản Quyền vì một hành vi của quyền bính hay của giáo vụ, hoặc xúi giục người thuộc quyền bất tuân các Ngài, sẽ bị phạt cấm chế hay những hình phạt xứng đáng khác.
Ðiều 1374: Ai ghi tên vào một hội âm mưu chống lại Giáo Hội, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng. Ai phát động hay điều khiển hội ấy, sẽ bị phạt cấm chế.
Ðiều 1375: Ai làm cản trở việc tự do thi hành một tác vụ, hay sự tự do bầu cử hay thi hành quyền bính Giáo Hội, hay sự xử dụng hợp pháp những của thánh hay các tài sản khác của Giáo Hội, hoặc hăm dọa cử tri hay người đắc cử, hay người thi hành quyền bính hay giáo vụ, có thể bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1376: Ai xúc phạm đến một đồ thánh, động sản hay bất động sản, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1377: Ai chuyển nhượng tài sản Giáo Hội khi không có phép theo luật định, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
Thiên 3: Sự Chiếm Ðoạt Những Chức Vụ Giáo Hội Và Những Tội Phạm Trong Việc Hành Sử Các Chức Vụ Ấy
Ðiều 1378: (1) Tư tế hành động ngược lại các quy định ở điều 977, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
(2) Sẽ bị hình phạt tiền kết cấm chế hay, nếu là giáo sĩ, hình phạt huyền chức:
1. người nào không có chức tư tế mà dám cử hành Hy Tế Thánh Thể;
2. người nào, ngoài trường hợp nói ở triệt 1, dù không thể ban bí tích giải tội cách hữu hiệu mà dám giải tội hoặc nghe xưng tội như bí tích.
(3) Trong những trường hợp nói ở triệt 2, tùy theo mức độ nặng nề của tội phạm, có thể thêm những hình phạt khác nữa, kể cả vạ tuyệt thông.
Ðiều 1379: Ngoài những trường hợp nói ở điều 1378, ai giả bộ cử hành bí tích sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1380: Ai cử hành hay lãnh nhận một bí tích vì mại thánh sẽ bị phạt cấm chế hay huyền chức.
Ðiều 1381: (1) Bất cứ ai chiếm đoạt một giáo vụ, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
(2) Việc giữ lại bất hợp pháp một chức vụ sau khi đã bị truất chức hay mãn chức cũng kể như tương đương với sự chiếm đoạt.
Ðiều 1382: Giám Mục nào không có ủy nhiệm thư giáo hoàng mà phong chức Giám Mục cho người khác, cũng như người nào được truyền chức do Giám Mục ấy sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh.
Ðiều 1383: Giám Mục nào vi phạm quy định ở điều 1015, phong chức cho một người không phải là người dưới quyền của mình mà không có ủy nhiệm thư hợp pháp, sẽ bị cấm truyền chức trong hạn một năm. Còn người đã được thụ phong tức khắc bị huyền chức thánh vừa lãnh nhận.
Ðiều 1384: Ngoài những trường hợp nói ở các điều 1378-1383, ai thi hành bất hợp lệ chức vụ linh mục hay một tác vụ thánh khác, có thể bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1385: Ai trục lợi bất hợp pháp trên các bổng lễ, sẽ bị phạt vạ hay hình phạt xứng đáng khác.
Ðiều 1386: Ai biếu hoặc hứa bất cứ điều gì cho một người thi hành chức vụ trong Giáo Hội để họ thi hành hay bỏ qua không làm điều gì cách bất hợp lệ, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng; ngưòi nhận tặng phẩm hay lời hứa cũng vậy.
Ðiều 1387: Linh mục nào trong khi giải tội, hay nhân dịp giải tội, hay lấy cớ giải tội, mà dụ dỗ hối nhân phạm tội nghịch giới răn thứ sáu, sẽ bị phạt, tùy theo mức nặng của tội phạm, huyền chức, cấm quyền, tước quyền và, trong những trường hợp nặng hơn, phải bị khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
Ðiều 1388: (1) Cha giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh. Còn ai chỉ vi phạm gián tiếp, sẽ bị phạt tùy theo mức nặng của tội phạm.
(2) Thông dịch viên và những người khác nói ở điều 983, triệt 2, nếu vi phạm bí mật, phải bị phạt hình phạt xứng đáng, kể cả vạ tuyệt thông.
Ðiều 1389: (1) Ai lạm dụng quyền bính hay chức vụ Giáo Hội, sẽ bị phạt tùy theo mức nặng của hành vi hay của sự quên sót, kể cả hình phạt truất chức, trừ khi luật pháp hay mệnh lệnh đã thiết lập một hình phạt cho sự lạm quyền ấy.
(2) Ai, vì sơ xuất có lỗi, đã ban hành hay bỏ qua bất hợp lệ một hành vi thuộc quyền bính, tác vụ, hay chức vụ Giáo Hội, khiến cho người khác bị thiệt hại, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng.
THIÊN 4: TỘI NGUỴ TẠO
Ðiều 1390: (1) Ai cáo gian một cha giải tội lên Bề Trên trong Giáo Hội về tội phạm nói ở điều 1387, sẽ mắc vạ cấm chế tiền kết và nếu là giáo sĩ, vạ huyền chức nữa.
(2) Ai vu cáo với Bề Trên về một tội phạm khác, hay bằng cách nào khác làm hại đến thanh danh của tha nhân, có thể bị phạt hình phạt xứng đáng, kể cả phạt vạ.
(3) Người vu khống cũng có thể bị bắt buộc phải bồi thường tương xứng.
Ðiều 1391: Có thể bị phạt hình phạt xứng đáng, tùy theo mức nặng của tội phạm:
1. người giả mạo một công chứng thư của Giáo Hội, hay biến cải, thủ tiêu, giấu ẩn, hay xử dụng một chứng thư giả mạo hay bị sửa đổi;
2. người xử dụng một chứng thư nào khác, giả mạo hay bị sửa đổi, trong một công chuyện thuộc Giáo Hội;
3. người xác quyết điều gì giả mạo trong một công chứng thư thuộc Giáo Hội.
THIÊN 5: TỘI PHẠM ÐẾN CÁC BỔN PHẬN ÐẶC BIỆT
Ðiều 1392: Giáo sĩ hay tu sĩ hoạt động buôn bán kinh doanh ngược với những điều giáo luật quy định, sẽ bị phạt tùy theo mức nặng của tội phạm.
Ðiều 1393: Ai vi phạm các bổn phận đã được đặt ra cho mình như hình phạt, có thể bị phạt hình phạt xứng đáng.
Ðiều 1394: (1) Ðừng kể quy định ở điều 194, triệt 1, số 3, giáo sĩ toan tính kết hôn, mặc dù chỉ là theo nghi thức dân sự, sẽ mắc vạ huyền chức tiền kết. Nếu sau khi bị cảnh cáo mà không hối cải và vẫn tiếp tục gây gương xấu, có thể bị phạt bằng những sự tước đoạt tiệm tiến, kể cả sự khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Tu sĩ đã khấn trọn đời mà không phải là giáo sĩ, toan tính kết hôn, dù chỉ theo nghi thức dân sự, sẽ mắc vạ cấm chỉ tiền kết, đừng kể quy định ở điều 694.
Ðiều 1395: (1) Một giáo sĩ tư tình, ngoài trường hợp nói ở điều 1394, và giáo sĩ thường xuyên ở trong tội nghịch giới răn thứ sáu và gây gương xấu, sẽ bị phạt huyền chức. Và nếu sau khi bị cảnh cáo mà còn tiếp tục lỗi phạm, có thể bị phạt thêm dần dần những hình phạt khác nữa cho đến khi khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Giáo sĩ vi phạm cách nào khác đến giới răn thứ sáu, nếu đã phạm tội bằng bạo hành, hay ngăm đe, hoặc cách công khai hoặc với một vị thành niên dưới mười sáu tuổi, sẽ bị phạt những hình phạt xứng đáng, kể cả sự khai trừ khỏi hàng giáo sĩ, nếu hoàn cảnh đòi hỏi.
Ðiều 1396: Ai lỗi nặng nghĩa vụ cư trú mà chức vụ Giáo Hội bó buộc phải giữ, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng, kể cả sự truất chức, sau khi đã được cảnh cáo.
THIÊN 6: TỘI PHẠM ÐẾN SỰ SỐNG VÀ SỰ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
Ðiều 1397: Ai phạm tội sát nhân, hoặc dùng vũ lực hay mưu kế để bắt cóc người ta, hoặc giam cầm hay chặt cắt chân tay, hay đả thương trầm trọng người nào, sẽ bị phạt tùy theo mức nặng của tội phạm, bằng những tước đoạt hay cấm chế dự liệu ở điều 1336. Nếu sự sát nhân phạm đến những người nói ở điều 1370, sẽ bị những hình phạt ấn định ở điều ấy.
Ðiều 1398: Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả, sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết.
THIÊN 7: TỔNG TẮC
Ðiều 1399: Ngoài những trường hợp do luật này hay các luật khác ấn định, sự vi phạm bên ngoài đến thiên luật hay giáo luật chỉ có thể bị phạt hình phạt xứng đáng khi tính cách trầm trọng đặc biệt của sự vi phạm đòi hỏi, và khi nhu cầu phòng ngừa hay sửa chữa gương xấu thúc bách.
XEM TIẾP QUYỂN VII: TỐ TỤNG
G. Trần Ðức Anh, OP( Theo Radio Vatican)
Nguồn: http://gpcantho.com/ArticlesDetails.aspx?ArticlesID=458#_Toc292198790
Nguồn: http://gpcantho.com/ArticlesDetails.aspx?ArticlesID=458#_Toc292198790
TAGS:
CHIA SẺ BÀI VIẾT