
Suy Niệm Lời Chúa | Chúa Nhật Tuần XXXIII Thường Niên - Năm C - LỄ KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM | Mt 10,17-22 | Lm. Alfonso
by Lm Alfonsô
SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT TUẦN XXXIII MÙA THƯỜNG NIÊN - NĂM C -
LỄ KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Bài đọc 1: Kn 3,1-9
“Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt của người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng trông cậy của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao; vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu toả ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn. Ðó là Lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c.3).
Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như Người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. – Ðáp.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng”. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. – Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. – Ðáp.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về hân hoan, vai mang những bó lúa. – Ðáp.
Bài đọc II: 1 Cr 1,17-25
“Vì tiếng nói của Thập Giá là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo Thập giá của Ðức Kitô ra hư không. Vì chưng lời rao giảng về Thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ hư mất; nhưng đối với những người được cứu độ là chúng ta, thì điều đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì như đã chép rằng: “Ta sẽ phá huỷ sự khôn ngoan của những kẻ khôn ngoan, sẽ chê bỏ sự thông thái của những người thông sáng. Người khôn ngoan ở đâu? Người trí thức ở đâu? Người lý sự đời này ở đâu?” Nào Thiên Chúa chẳng làm cho sự khôn ngoan của đời này hoá ra điên rồ đó sao? Vì thế gian tự phụ là khôn, không theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu độ những kẻ tin. Vì chưng, các người Do-thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người. Ðó là lời Chúa.
Alleluia, alleluia (1 Pr 4, 14) – Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em. – Alleluia.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 10,17-22)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì. Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Giáo hội Việt Nam long trọng mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào Chúa Nhật áp chót của năm Phụng vụ. Bầu khí đại lễ thật hào hùng khi cộng đoàn cùng cất lên: “Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”. Quốc gia chúng ta tuy nhỏ bé về địa lý, Tin mừng chỉ mới được loan báo tại Việt Nam từ sau thời Trung cổ, vào thế kỷ thứ XVI với vị thừa sai đầu tiên tên Inêkhu năm 1533. Chỉ sau chưa đầy 100 năm, sóng gió nổi lên khi đạo Công Giáo bị bách hại liên tục dọc dài lịch sử nước Việt từ thời vua Lê – chúa Trịnh đến triều Nguyễn. Do vậy mà danh tiếng Giáo hội Việt Nam vang lừng khi chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo hội hoàn vũ một sự nghiệp đức tin hiển hách. Con số uớc tính khoảng 130.000–300.000 tín hữu bị bách hại và tử đạo trong gần ba thế kỷ. Chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã nhận xét: “Sau Giáo hội Rôma thì Giáo hội Việt Nam cũng bị cấm đạo gay gắt và có con số tử đạo cũng đông không kém.”
Thật vậy, Đạo Chúa bị cấm cách cả hai vùng Đàng Ngoài (Tonkin) lẫn Đàng Trong (Cochinchine) suốt ba thế kỷ. Kể từ Sắc Dụ Cấm Đạo năm 1625 đời Chúa Sãi đến thời Văn Thân năm 1886, các giáo hữu người thì chịu chết do án lệnh của các vua, người thì bị đày chết nơi rừng thiêng nước độc ở đất Quảng như giáo dân Lavang, hay bị phong trào Văn Thân tàn sát tập thể. Có khi một lúc lên tới hơn 400 người chịu bách hại. Trong số đông đảo các vị Tử đạo, đã có 117 vị đại diện có hồ sơ bút tích đầy đủ đã được tuyên phong Hiển Thánh và 1 vị chân phước: gồm 97 vị người Việt, và 21 vị thừa sai ngoại quốc như Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Pháp, Hoà Lan, Ý Đại Lợi. Các vị gồm đủ thành phần trong Hội thánh: 8 giám mục, 50 linh nục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân nam có nữ có. Các thánh giáo dân cũng làm đủ nghành nghề trong xã hội như quan chức triều đình, thu thuế, binh lính, lang y, thương gia và nông dân. Những vị này bị bắt mà không màn mạng sống để quá khóa qua các triều Vua bách hại: Triều Nguyễn (1745 – 1774): 4 vị; Đời Vua Cảnh Thịnh (1788 – 1801): 2 vị; Minh Mạng (1820 – 1840): 58 vị; Thiệu Trị (1841 – 1847): 3 vị; Tự Đức (1847 – 1883): 50 vị.
In sâu trong án văn lịch sử Giáo hội Việt Nam không thể nào không nhắc tới phong trào Văn Thân (1862), Cần Vương (1883) cho in chữ “Tả Đạo” lên bên má của người đạo Chúa. Phong trào “Bình Tây Sát Tả” phò vua bình địa các Cố Tây, tàn sát người mang danh Kitô hữu mà họ lấy danh nghĩa rằng họ là “người lương”, người tốt lành để phân biệt với những người Công Giáo mà họ gán cho là Đạo sai trái, và diệt “Tả đạo”. Cũng phải kể chính sách theo kiểu “phân sáp”, một chính sách sâu độc của vua Tự Đức chia cắt vợ chồng con cái trong gia đình ra tứ phương tám hướng hòng người Công giáo sợ mà bỏ Đạo.
“Tử Đạo” nguyên ngữ là “Martyr”, dịch của chữ martus, martureô, có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các bậc cha ông chúng ta tử đạo là những mục tử thương yêu đoàn chiên, những giáo lý viên nhiệt thành loan báo tình thương của Chúa cho muôn người, những người cha người mẹ vô cùng thương vợ chồng con cái, những người con rất có hiếu và ao ước được sống để phụng dưỡng cha yếu mẹ già cần người nâng bát cơm đôi đũa chén trà. Họ còn là những người học cao hiểu rộng, là những người yêu quê hương đến nỗi sẵn sàng trở nên quân nhân hiến mạng cho tổ quốc. Họ bình thường chứ không phải là những người điên, nặng “tình người” chứ không phải “vô cảm”.
Các thánh Tử đạo chấp nhận cái chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải vì các ngài không muốn sống. Các vị chứng tỏ lòng trung kiên bằng cách không bước qua Thánh giá để chối đạo, dù bị cám dỗ bằng tiền bạc hay hăm dọa. Dù có phải chịu gông cùm tra tấn, đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, họ thậm chí sẵn sàng đón nhận cái chết quyết không chối bỏ Thiên Chúa. Họ có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Các chứng nhân ấy chịu tử đạo với đa dạng việc hành hình:
1) Bá đao: bị xẻo da thịt làm 100 mảnh: có 1 vị.
2) Lăng trì: chặt tay chân, mổ bụng rồi quăng xuống sông: 4 vị.
3) Thiêu sinh: cho lên dàn thiêu sống : 6 vị.
4) Xử giảo: siết cổ đến chết: 22 vị.
5) Xử trảm: chém đầu: 76 vị.
6) Rũ tù: Giam cầm cho tới khi chết : 9 vị.
Đọc lại tiểu sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có Đạo là đặt một cây Thánh giá, hoặc cây gỗ xếp hình Thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua để tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được thoát khỏi cực hình, tha về với vợ con xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lộc trần gian. Ai kiên quyết không bước qua thì bị xem là người ngoan cố phải chịu hành hình và chịu chết.
Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: “Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quý vị điều gì trái nghịch với Đạo. Chúng tôi biết đây không phải là Thánh giá mà quý vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua”. Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người Công Giáo: “Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Thánh Phêrô chối đạo ba lần mà vẫn còn được nhấc lên cao”.
Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn thánh Stêphanô Ven, một linh mục trẻ mới 31 tuổi, Hội Thừa Sai Ba-lê (thường được gọi là các cha hội nhà MEP: Missions Étrangères de Paris) đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát: “Tôi suốt đời thuyết giảng về Đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!” Có người bị khiêng qua Thánh giá, nhưng ông đã co chân lên để chân không chạm vào tượng ảnh Chúa nhằm thể hiện ý chí theo Chúa, như thánh Antôn Nguyễn Đích: “Con không chịu bước qua Thánh Giá Chúa, vì họ khiêng con qua”. Còn có người khi bị khủng bố bằng sự đe dọa, đã sợ khổ hình ghê rợn nên bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông một bên là mười nén vàng, một bên là tượng Chịu Nạn và thanh gươm rồi nói: “Cho bây tự ý chọn, bước qua Tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bây ra, xác sẽ bỏ trôi ngoài biển.” Có người được mời giả vờ bước qua Thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng các ngài đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi êm dịu ấy.
Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thể hiện điều người ta nói là sự thật, nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của người dám lấy chính mạng sống mình làm bảo đảm. Dầu cho mỗi vị tử đạo vì tin thờ Thánh Giá mà phải chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý, tuyên xưng đức tin, và dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Họ không vì mạng sống đời tạm mà chối Chúa, bỏ Đạo. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử, vẫn quyết trung kiên theo Chúa đến cùng, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê Trời.
Ngày nay, không ai dùng bạo lực hay những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ Đạo hay chối Chúa như các thánh Tử đạo ngày xưa. Thế nhưng, luôn có những thách đố không kém mà chúng ta cũng cần bày tỏ đức tin của mình một cách không thỏa hiệp. Trở nên những chứng nhân là chấp phải đương đầu với những thách thức mới để sống đạo trong xã hội hôm nay. Đứng trước Thánh giá là giây phút quan trọng, là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Xin kể ra hai khó khăn: thứ nhứt đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển vì ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình. Những nhu cầu của bản thân của mình, lo làm ăn, học hành ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, cũng như không còn thời giờ quan tâm đến người xung quanh. Khó khăn thứ hai là đồng tiền đang trở thành một thứ quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người, trở thành một thước đo giá trị con người. Có người vì muốn có nhiều tiền mà sẵn sàng dung thủ đoạn hết sức tinh vi để “đào lửa”, làm hàng giả, buôn hàng cấm, tham ô tham nhũng, hối lộ, lạm quyền, nhũng nhiễu... Xã hội mới đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, chúng ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Các thánh Tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết đi cho những ý riêng của mình mỗi ngày trong những chiến đấu không đổ máu mà vẫn đau vẫn rát. Sống Lời Chúa trong thời đại mới là một cuộc tử đạo liên tục. Sống vì Đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì Đạo.
Lời Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II nhắn nhủ trong bài giảng phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam ngày 19.6.1988 vẫn còn vang vọng. Ngài nói nguyên văn tiếng Việt như sau: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến, Cha gởi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuôn về Rôma, hiên ngang mừng các thánh Tử đạo của Giáo hội chúng con. Xin Chúa Giêsu chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng”.
Nhân dịp gần tới ngày Hiến chương Nhà Giáo Việt Nam 20 tháng 11, xin kể câu chuyện lịch sử về vị quan thầy của Giáo lý viên là thánh Tử đạo Việt Nam Anrê Phú Yên (1625–1644) để vinh danh những anh chị em dấn thân giáo dục đức tin cho trẻ em, cho người muốn tìm hiểu về Đạo Chúa. Một chàng thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử mà không được nói một lời để bào chữa. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644, vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh Cấm Đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến chỗ ở vị thừa sai Đắc Lộ dòng Tên (Alexandre de Rhodes S.J, 1591–1660) để bắt thầy giảng Inbaxu. Toán lính xông vào nhà lục lọi thì chỉ gặp người thanh niên quê hương Phú Yên là người mà cha Đắc Lộ đã rửa tội cho được ba năm, và đã đi theo cha để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính. Suốt quảng đường, anh không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Anh cương quyết thà chết chẳng bỏ Đạo. Lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành thị chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác xung quanh không cho ai vào phía trong cả. Song, viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực. Thầy nhìn cha Đắc Lộ như để từ biệt. Cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó, thầy chăm chú nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh. Vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh Anrê Phú Yên mới lìa khỏi cổ, máu chảy lai láng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhận lấy thủ cấp vị Tử đạo tiên khởi của nước Đại Việt gói lại kỹ càng như một báu vật. Còn xác ngài, cha tẩm liệm, gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Cha biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (Theo “Người chứng thứ nhất” của nhà sử học Phạm Đình Khiêm). Hiện tại, thủ cấp của thầy giảng Anrê Phú Yên được trưng bày tại Rôma như một chứng tích anh hùng.
Về phần Cha Đắc Lộ, người đã ghi nhận và thừa hưởng di cảo của những người tiền bối để hệ thống hóa và san định hệ chữ Quốc ngữ Alphabet cũng còn gọi là mẫu tự Latinh mà người Việt Nam sử dụng tới ngày nay, cũng như biên soạn và giám sát việc ấn hành Từ điển Việt–Bồ–La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, xuất bản tại Rôma năm 1651), là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, cùng với nó là cuốn Phép Giảng Tám Ngày song ngữ La-Việt. Năm 1645, cha bị trục xuất khỏi Đại Việt vĩnh viễn sau một năm khi học trò Anrê Phú Yên được phúc Tử vì Đạo, do chính quyền chúa Trịnh và chúa Nguyễn không còn lợi dụng được các nhà truyền giáo để giao thương với Bồ Đào Nha. Năm 1655, ngài đặt chân tới truyền giáo ở Ba Tư. Sau 5 năm hoạt động truyền giáo và di chuyển liên tục, cha qua đời do bệnh tật ngày 5 tháng 11 năm 1660. Vị thừa sai người Pháp này đã nằm lại thành phố cổ Isfahan (trái tim kinh đô của nước Ba Tư này xưa), cách thủ đô Teheran của Iran ngày nay khoảng 350 cây số về phía Nam.
Lạy Cha trên trời, giây phút quyết định chọn lấy Thánh giá làm kim chỉ nam sống và chấp nhận “tử đạo vì danh Cha” không phải là sự nông nổi nhất thời, mà là kết tinh của những tháng ngày kiên trì cầu nguyện, của việc cương quyết trước sự thỏa hiệp, của việc thắng vượt những sợ hãi, của sự giằng co nội tâm trước những lợi ích trần thế và hạnh phúc nước Trời. Xin Chúa cho con mỗi ngày quyết bước theo sát Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa. Nhờ đó mà con xứng đáng được lãnh triều thiên vinh quang bất diệt cho người bền chí đến cùng sống và làm sáng danh Đạo Chúa. Amen.