
Suy Niệm Lời Chúa | Chúa Nhật III Phục Sinh | Lc 24:13-35 | Lm Alfonsô
by Suy Niệm Lời Chúa
Chúa Nhật III PHỤC SINH NĂM A
Hiệp thông loan báo Tin Mừng

Bài Ðọc I: Cv 2,14.22-28
“Không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Hỡi các người Do Thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Đức Giêsu Nazaréth là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó . Vì chưng Đavíd đã nói về Người rằng: ‘Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa’”. Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Đáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh (c.11a).
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: “Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con”. – Đáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. – Đáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! – Đáp.
Bài đọc II: 1Pr 1,17-21
“Anh em được cứu độ bằng Máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền”.
Trích thư thứ nhất của thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu anh em gọi Người là Cha, Đấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
Alleluia, alleluia! (x. Lc 24,32) – Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. – Alleluia.
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca (24,13-35).
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.
Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Đoạn Người bắt đầu từ Môisen đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Đó là lời Chúa.
Suy niệm “Trăm cái lý không bằng tí cái tình”
Câu chuyện về cuộc hành trình Emmaus được kể là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất của thánh sử Luca. Câu chuyện vừa sâu sắc về mặt thần học, vừa mang tính văn chương sắc nét, với cấu trúc một chuyến khứ hồi Giêrusalem – Emmaus – Giêrusalem nói lên tâm hồn của người môn đệ nhờ cái tình mà được hâm nóng lại.
Sự việc xảy ra liên quan đến người mà các ông gọi là Đức Giêsu quê thành Nazaréth, một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Vậy mà các trưởng tế và thủ lãnh Israel đã bắt nộp Người để xử án tử. Về phần mình, các môn đệ vẫn ấp ủ một tia hy vọng rằng Người sẽ cứu Israel. Nhưng rồi lòng động lòng lo hơn vì qua sắp hết ngày thứ I trong tuần, cũng là ngày thứ III kể từ lúc Người bị đóng đinh vào thập giá mà họ chưa thấy có dấu hiệu gì tỏ tường của một sự phục sinh.
Bằng ngòi bút văn chương, thánh sử Luca dùng hình ảnh ánh chiều tà càng lúc càng dần tắt nắng diễn tả một cách tinh tế tâm trạng thất vọng, con tim rã rời, bước chân lê gót của các môn đệ một khi lý tưởng các ông theo đuổi giờ đây đã tan thành mây khói. Những tưởng về sự huy hoàng giờ như một giấc mơ không thành nên các ông quyết định đi về chốn xưa, về làm nghề cũ nơi làng quê mình, ít ra cũng kiếm sống qua ngày là một quyết định chẳng đặng đừng.
Trong nỗi chán chường không lối thoát của con người, Chúa Giêsu vẫn ở bên cạnh ủi an. Nhà chú giải Hugues Cousin cho biết Người đóng vai một khách hành hương lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua: mắt họ còn bị ngăn cản không nhận ra Người, chứ không phải là không thấy. Chúa Giêsu lắng nghe lời tâm sự, lắng nghe cả tâm tư, lắng nghe những gút mắc trong lòng họ. Cả lời công bố Phục Sinh nữa: dầu các thiên thần báo rằng Chúa Giêsu đang sống, trừ các phụ nữ ra, còn lại nhóm các ông không thấy Người. Và tới ngày thứ III rồi, các tông đồ vẫn không nhận được lời công bố rõ ràng nào về sự sống lại, chỉ có tranh luận về chứng từ của các phụ nữ, về sự kiện ngôi mộ trống và các băng vải liệm được xếp cẩn thận!
“Người khách lạ” chăm chú lắng nghe để hai môn đệ có dịp trải lòng. Có như vậy tới lượt họ mới chịu lắng nghe Người dẫn giải. Nghe hai môn đệ xong, Chúa Giêsu lên tiếng quở trách không phải vì họ không nhận ra Người, mà vì họ chậm tin vào chương trình cứu độ của Chúa, “phải” được ghi chép trong sách các tiên tri. Vị khách bộ hành duyệt lại cuộc sống và cái chết của “Thầy họ” dưới ánh sáng Thánh Kinh, khởi đi từ Môisen và các tiên tri. Người mạc khải cho họ thấy thánh ý nhiệm mầu của Chúa thể hiện giữa những biến cố mà họ cho là thê thảm. Rồi Người cho họ thấy rằng cái chết của Đức Giêsu Nazaréth dường như là một ngõ cụt đối với họ, lại là đường dẫn đến sự Sống: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”
Khi gợi lên hoạt động thần linh, động từ ở thể thụ động cách cho chúng ta biết rằng sự tối dạ chậm tin của hai người không phải là những điều duy nhất được nói tới. Con mắt xác thịt của chúng ta không thể nhận ra Đấng Phục Sinh, bởi qua việc sống lại, Người đã đi vào một tình trạng hoàn toàn mới mẻ. Như trong sự kiện Biến Hình, dung mạo Người hoàn toàn đổi khác (x.9,29), giờ đây Người cũng sẽ hiện diện cả nơi này lẫn nơi kia mà không bị giới hạn bởi không gian thời gian; Người đi cạnh bên trong vai trò khách bộ hành; Người bước vào khi cửa nhà các môn đệ đang đóng chặt; Người dùng thức ăn dọn ra để họ nhận ra Người không phải là hồn ma. Điều này cho thấy Người đã vào trong vinh quang, và “thế giới” của Thiên Chúa chỉ có thể được nhận biết bằng con mắt đức tin.
Thế nhưng, chính lòng hiếu khách đã giúp hai môn đệ nhận ra Người. Các ông nài ép vị khách bộ hành vì tình người, vì lo cho sự an toàn khỏi đêm hôm nguy hiểm: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Họ mời Đấng mà trước mặt họ vẫn là một người khách lạ ở lại. Nhưng rồi vị khách mời lại giữ vai trò của người chủ nhà và chủ toạ bàn ăn. Với bốn cử chỉ Người thực hiện “cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ” đã giúp họ nhanh chóng nhận ra đó chính là những cử chỉ của Thầy Chí Thánh thực hiện trong bữa Tiệc Ly. Cử chỉ quen thuộc của Chúa Giêsu làm phép bánh và bẻ bánh là chứng từ giúp cho mắt họ sáng ra và nhận ra “chỉ có thể là Đấng Kitô, Thầy Chí Thánh”. Việc nhận biết Chúa chỉ hoàn tất khi bẻ bánh. Cử chỉ này cũng báo trước những những lần hội họp của các cộng đoàn, trong đó Chúa Giêsu tuy vô hình, nhưng vẫn hiện diện trong các cử hành Bẻ Bánh của Giáo hội, thực hiện lệnh Chúa truyền để nhận ra Chúa Phục Sinh.
Chúng ta thấy đó, hai môn đệ dù đã theo và sống với Chúa một thời gian dài, ít nhiều được nghe những lời hay ý đẹp mà Chúa Giêsu đã nói, cũng hiểu biết Kinh Thánh chứ, những tư tưởng cao siêu mà chỉ Đấng tự trời xuống mới cho biết được những sự trên trời. Nhưng vẫn chưa đủ vì những kiến thức về Kinh Thánh còn nằm trong lý trí, chứ chưa hâm nóng con tim được. Chỉ bằng cử chỉ thân thương, trao ban, sẻ chia mà những con người yêu thương nhau cảm nhận ra ngay. Quả đúng như câu “Trăm cái lý không bằng tí cái tình”, chỉ có kinh nghiệm tương giao thân mật mới đốt nóng tâm hồn các môn đệ để các ông cảm nhận sự hiện diện ấm áp của Người. Cuộc gặp Đấng Phục Sinh đã thắp sáng cõi lòng băng giá của hai ông, khiến họ tức tốc quay lại Giêrusalem để báo Tin mừng phục sinh mà chẳng sợ hiểm nguy vì họ đem ánh sáng vào đêm tối tăm.
Thật sự cần lắm con tim người môn đệ dần dần thắm đượm Lời Chúa, nhờ đó chúng ta có thể nhận ra rằng dù ta không thấy được Người bằng con mắt thể lý, nhưng không thấy được không có nghĩa là vắng mặt, Đấng Phục Sinh vẫn luôn hiện diện”. Người từng bước biến đổi tâm hồn họ bằng việc giải thích Kinh Thánh để sẵn sàng đón nhận Người một cách thực sự.
Chuyện kể rằng có một người đêm nọ mơ thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Nhìn lên bầu trời, anh thấy những cảnh sống trong đời mình được chiếu lên. Trong mỗi cảnh sống trong đó, anh ta thấy có hai đôi dấu chân in trên cát, một đôi của anh, còn đôi kia của Chúa. Khi cảnh cuối cùng đời anh chấm dứt, nhìn lại những dấu chân đã in trên cát, rất nhiều lần trong cuộc đời buồn chán đau khổ nhất, anh chỉ thấy có một đôi dấu chân mà thôi. Anh hoang mang hỏi Chúa: – “Thưa Chúa, Chúa đã nói rằng một khi con quyết định theo Chúa thì Chúa sẽ cùng bước đi với con suốt mọi chặng đường của đời con. Nhưng con nhận thấy rằng, trong những giai đoạn rối ren nhất của đời con, chỉ vẻn vẹn có một đôi chân mà thôi. Sao Chúa lại bỏ rơi con khi con cần đến Chúa nhất?” Chúa mỉm cười trả lời: – “Ta yêu thương con và không bao giờ lìa bỏ con đâu. Trong những lúc thử thách nhất, khi con thấy chỉ có một đôi dấu chân trên cát lúc ấy là của Ta chứ không phải của con, còn con lúc đó được Ta bồng ẵm trên tay”.
Khi hai lữ khách nhận ra “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” cũng là lúc họ quyết định về hội tụ với nhóm Mười Một và các bạn hữu. Thánh Luca kéo dài những gì ngài đã nói về sứ vụ của nhóm Bảy Mươi Hai, để nhận ra việc sai đi truyền giáo về Tin Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh liên quan tới những ai sống hiệp thông với nhóm Mười Một, một Giáo hội Duy nhất- Thánh thiện-Công giáo-Tông truyền.
Câu chuyện Tin mừng hôm nay mang dáng dấp của cấu trúc Thánh lễ gồm hai phần: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. “Ngày Chúa nhật”, ngày của Chúa, các tín hữu quy tụ để lắng nghe diễn giải Kinh Thánh và tham dự Bẻ bánh. “Trong hai lữ khách ấy, thánh sử Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpa, người còn lại không được nêu tên, mà Ch. Perrot chú giải rằng để cho bất cứ người Kitô hữu nam nữ nào khi đọc hay lắng nghe trang Tin mừng thời danh này tự điền tên mình vào để trở nên những người loan báo Tin mừng Phục Sinh. Như thế, câu chuyện hai môn đệ Emaus không phải là câu chuyện của quá khứ, mà là câu chuyện đức tin của mỗi người, mỗi gia đình ngày nay. Đạo Kitô giáo chúng ta không nằm ở chỗ những lời hay ý đẹp, những tư tưởng cao sâu. Sống Đạo không chỉ nằm ở suy nghĩ với một số hiểu biết về giáo lý, về Kinh Thánh… và giữ Đạo lại càng không phải chỉ nghe người này người khác nói về Chúa. Điều này cần nhưng chưa đủ! Vâng, Kitô giáo trước hết và trên hết là sự gặp gỡ – gặp gỡ chính Đấng Phục Sinh, cảm nếm tình yêu của Người, và sống hiệp thông chia sẻ với cộng đoàn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa tiếp tục hiện diện bên cạnh và cùng đi với con trong từng bước của đời sống con. Xin cho con cảm nghiệm được tình thương của Chúa nhờ tập cho mình một sự thường xuyên tham dự Thánh Lễ để có một đời sống thân tình cá vị với Chúa. Có như thế, con mới trở nên những người loan báo Tin Vui cứu độ muôn người. Amen.
Lm Alfonsô